Nhiều người trong số họ không chỉ là “chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng”, mà còn cầm súng chiến đấu và đã hy sinh giữa trận tiền. Trong đó, các nhà báo, liệt sĩ Trần Kim Xuyến, Phạm Thị Ngọc Huệ và Thôi Hữu là những bông hoa bất tử, tiêu biểu cho lý tưởng, bản lĩnh và tâm huyết của người làm báo cách mạng.

Bông huệ trắng Trường Sơn
Nhà báo, liệt sĩ Phạm Thị Ngọc Huệ là một trong những bông huệ trắng vĩnh viễn nằm lại nơi núi rừng Trường Sơn để lại câu chuyện xúc động về lý tưởng, lòng quả cảm và tình yêu nghề báo.
Ngọc Huệ sinh năm 1946, quê Ninh Bình, nổi bật với sự thông minh, học giỏi, hát hay và tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ. Đỗ vào Đại học Tổng hợp Văn nhưng chị từ bỏ giảng đường để tình nguyện vào chiến trường. Chị tham gia đơn vị Thanh niên xung phong Ninh Bình, thuộc binh trạm 36, làm nhiệm vụ mở đường chiến lược 20 - Quyết Thắng trên tuyến lửa Trường Sơn. Khi con đường hoàn tất, nhiều đồng đội trở về quê, nhưng chị Huệ vẫn ở lại, bởi "đồn giặc còn đây, chúng con chưa về".
Sau đó, chị được điều động về Ban Tuyên huấn Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn, làm phóng viên báo “Trường Sơn”, cơ quan của Bộ Tư lệnh binh đoàn. Theo lời kể của ông Phạm Văn Hồng (anh trai nhà báo Ngọc Huệ), những ngày đầu làm báo, chị đảm nhận công việc sửa lỗi bản thảo, kiểm tra từng trang báo trước khi in. Công việc "bếp núc" ấy chính là môi trường rèn luyện hiệu quả, giúp chị trưởng thành nhanh chóng trong nghề báo.
Khi được trực tiếp viết tin bài, nhà báo Ngọc Huệ không ngần ngại bám sát thực tiễn chiến đấu. Chị đến các binh trạm, trọng điểm ác liệt, gặp gỡ những người lính đang ngày đêm chiến đấu như lái xe Lê Bá Kiệm, lái máy Vũ Tiến Đề, tiểu đoàn công binh 25; đến trận địa của Trung đoàn phòng không 224 ở Tha Mê, La Trọng, Khe Tang để tường thuật những trận đánh tiêu diệt máy bay Mỹ. Báo in xong được gói ghém cẩn thận, chị gánh bộ ra trạm đón xe vận tải để kịp chuyển đến các đơn vị trong tuyến lửa.

Khoảng 6 giờ sáng ngày 20/12/1968, trong lúc cùng đồng đội vượt qua trọng điểm Ka Tốc, dưới chân đỉnh Pu Khao, gần cửa khẩu Lùm Bùm (Lào), nhà báo Phạm Thị Ngọc Huệ đã anh dũng hy sinh do vướng mìn của Mỹ. Khi hy sinh, chị mang bên mình cuốn sổ ghi chép tiếp nhận quân nhu, trang phục của đoàn công tác và bản thảo viết dở về những tấm gương tại trạm sửa chữa xe máy Trường Sơn mà chưa kịp chuyển về tòa soạn.
Chiến tranh lùi xa, nhưng nỗi đau vẫn còn đó. Gia đình và đồng đội nhiều lần đi tìm phần mộ của chị nhưng đến nay chưa có kết quả. Máu thịt của chị đã hòa vào đất mẹ Trường Sơn như bông huệ trắng bất tử nở giữa đại ngàn.
Thôi Hữu - người chiến sĩ với ngòi bút kiên trung
Nhà báo, nhà thơ Thôi Hữu (tên thật là Nguyễn Đắc Giới, bí danh Trần Văn Tấn, Tân Sắc), sinh năm 1921 tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
Sinh ra trong thời kỳ đất nước chìm trong khói lửa thực dân, Thôi Hữu sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1943, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Một năm sau, ông bị thực dân Pháp bắt, kết án 5 năm tù và giam giữ tại nhà tù Hỏa Lò. Nhưng ý chí không khuất phục, ông trốn tù, tiếp tục hoạt động cách mạng tại ngoại thành Hà Nội. Can đảm, mưu trí, ông lập nhiều chiến công, trở thành một trong những cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng bộ Hà Nội thời kỳ ấy.
Gắn bó với nghề báo từ năm 1946, khi kháng chiến chống Pháp lan rộng, Thôi Hữu vừa là chiến sĩ, vừa là nhà báo. Lên Việt Bắc, ông tham gia Ban biên tập báo Vệ quốc quân, sau đó được phân công về báo Sự thật, cơ quan lý luận của Trung ương Đảng. Ông luôn tâm niệm: "Làm báo cách mạng là dấn thân, là sống và chiến đấu bằng ngòi bút". Với tinh thần ấy, ông nhanh chóng trở thành cây bút sắc sảo, nhà báo chiến sĩ mẫu mực.
Không chỉ nổi bật ở nghề báo, Thôi Hữu còn là nhà văn giàu nội lực. Ở mảng văn xuôi, chính luận, ký, tùy bút, ông viết khỏe, viết chắc, viết bằng sự từng trải và trái tim của người sống giữa phong trào. Ông cùng Trần Đăng, Trần Độ, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Thâm Tâm… làm nên một thế hệ nhà văn, nhà báo tiêu biểu, góp phần định hình diện mạo văn nghệ, báo chí cách mạng đầu kháng chiến.
Tháng 12/1950, trong khi trên đường thực hiện nhiệm vụ tại Thái Nguyên, ông bị máy bay Pháp bắn trúng và anh dũng hy sinh khi mới 30 tuổi. Đồng bào chôn cất ông trên một ngọn đồi thuộc dãy Phi Mã Sơn, sau này được đưa về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Vô Tranh.
3 tháng sau ngày ông hy sinh, ngày 11/3/1951, theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tờ Sự thật được đổi tên thành báo Nhân dân. Sự nghiệp báo chí và cách mạng của nhà báo, liệt sĩ Thôi Hữu là hình mẫu sáng ngời của người làm báo chân chính: tận hiến với lý tưởng, sống trọn với nhân dân và ngã xuống cho một nền báo chí cách mạng lớn mạnh, kiên cường.
Trần Kim Xuyến - người chiến sĩ ngã xuống vì tiếng nói Tổ quốc
Nhà báo, liệt sĩ Trần Kim Xuyến sinh năm 1921 tại Sơn Mỹ, Hương Sơn, Hà Tĩnh (nay là xã Tân Mỹ Hà) giàu truyền thống yêu nước, nơi từng là điểm sáng trong cao trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Lớn lên giữa khí thế sục sôi của những ngày cách mạng, Trần Kim Xuyến sớm giác ngộ lý tưởng đấu tranh, mang trong mình khát vọng góp phần giải phóng dân tộc.

Tốt nghiệp Trường Quốc học Vinh với kết quả xuất sắc, ông thi đỗ ngạch thông phán và được bổ nhiệm làm việc tại Tòa sứ Bắc Giang. Trong bóng tối của chế độ thực dân, Trần Kim Xuyến vừa hoạt động cách mạng bí mật, vừa tham gia công khai các hoạt động xã hội để mở rộng ảnh hưởng cách mạng. Năm 1943, ông chuyển về Hà Nội tiếp tục hoạt động trong lòng địch. Năm 1944, ông bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò. Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, ông cùng một số đồng chí tổ chức vượt ngục, đẩy mạnh tuyên truyền cách mạng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô.
Sau cách mạng tháng Tám, theo chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông tham gia thành lập Đài Phát thanh Quốc gia và được giao trọng trách tiếp quản, quản lý toàn bộ hệ thống thông tin, truyền thông từ chính quyền cũ. Khi Chính phủ Lâm thời được thành lập, Trần Kim Xuyến được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Nha Thông tin, tiền thân của Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam ngày nay, đồng thời trực tiếp phụ trách Việt Nam Thông tấn xã.
Không chỉ là người cán bộ thông tin tận tụy, Trần Kim Xuyến còn là một trong những đại biểu trẻ tuổi của Quốc hội khóa I, trúng cử tại khu vực Bắc Giang vào tháng 1/1946. Ngày 3/3/1947, trong một trận càn của thực dân Pháp nhằm triệt phá đài phát sóng của ta tại chùa Trầm, Trần Kim Xuyến đã dũng cảm đạp xe giữa làn đạn để chỉ huy sơ tán tài liệu, ông bị trúng đạn và anh dũng hy sinh khi mới 26 tuổi.
Ghi nhận công lao của ông, ngày 23/4/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất cho nhà báo, liệt sĩ Trần Kim Xuyến. Trong sắc lệnh, Người nhấn mạnh: "Là một cán bộ tuyên truyền có tài. Trước ngày khởi nghĩa đã tích cực hoạt động giữa Thủ đô, mặc dù chịu sự khủng bố, kiểm soát chặt chẽ của Pháp và Nhật, đã có công lớn xây dựng Nha Thông tin và Ðài Tiếng nói Việt Nam".
Là nhà báo đầu tiên hy sinh trong hàng ngũ báo chí cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, Trần Kim Xuyến để lại tấm gương sáng về một người làm báo tận tụy, kiên trung. Dù ở bất kỳ cương vị nào nhà báo, cán bộ thông tin, hay đại biểu Quốc hội ông đều cống hiến trọn vẹn trí tuệ, tâm huyết và cả sinh mạng cho sự nghiệp cách mạng, cho tiếng nói chính nghĩa của dân tộc.
Tên tuổi nhà báo Trần Kim Xuyến được khắc ghi trong tâm trí nhiều thế hệ. Tại Thủ đô Hà Nội có một con đường mang tên ông. Trên quê hương Hương Sơn, con đường Trần Kim Xuyến dài hơn 2km, rộng 12m, nối từ ngã tư Phố Châu ra đường Hồ Chí Minh như một nhịp cầu nối quá khứ oai hùng với hiện tại phát triển.
MINH CHÂU