Đã chọn “con đường tranh đấu, con đường sống”, từ thời Đệ Nhất Cộng hòa (1955 - 1963), nhà văn, nhà báo Dương Tử Giang dấn thân tham gia viết những bài báo công khai chống chính quyền thực dân và đứng về phía cách mạng. Ngày 8/10/1955 ông bị Chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm bắt giam ở bót Catinat, sau đưa lên Trại giam Tân Hiệp, Biên Hòa (Đồng Nai). Tại đây ông tiếp tục tham gia công tác tuyên truyền, đấu tranh, ngày 2/12/1956 khi cùng các phạm nhân khác phá khám vượt ngục ông bị địch bắn chết khi mới 38 tuổi.
Bút sắc, kiên trung
Theo nguồn tư liệu báo chí xuất bản ở Sài Gòn trước 1975, nhà văn, nhà báo, liệt sĩ Dương Tử Giang sinh ngày 15/3/1918 trong gia đình nông dân khá giả ở xã Nhơn Thạnh, huyện Châu Thành (nay thuộc xã Nhơn Thạnh, TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre). Sau khi kết thúc năm học 1933 - 1934, đậu Thành chung chương trình Pháp - Việt và đồng thời nhận cả hai bằng theo chương trình Pháp và Bre Élé mentaire, nhưng vì hoàn cảnh gia đình, ông không tiếp tục con đường học vấn mà mưu sinh bằng nhiều nghề khác nhau.
Là người đam mê nghệ thuật sân khấu cải lương, năm 1936 khi 18 tuổi ông đã đứng ra thành lập gánh hát Thanh Kỳ, nhưng vì thiếu kinh phí hoạt động và chưa có kinh nghiệm quản lý nên chỉ một thời gian ngắn gánh hát rã đám. Sau đó, ông lên Thủ Đức dạy học ở một trường tiểu học, nhưng rồi cũng không trụ được lâu. Rời trường tiểu học, ông thi vào làm viên chức ngành thuế quan ở Sài Gòn, đến năm 1944 thì chuyển xuống Hà Tiên làm thư ký cho Ty Thương chánh. Nhưng nhận thấy nghề thư ký không phù hợp, nên ông lại lên Sài Gòn tiếp tục con đường viết văn, làm báo mà ông đam mê.

Lấy bút danh Dương Tử Giang, ban đầu ông cộng tác với tờ “Mai” của thi sĩ nổi danh Đông Hồ và “Sống” của nhà văn, nhà báo Trúc Hà là 2 người trong “Hà Tiên tứ tuyệt” (Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê, Trúc Hà). Ông bắt đầu tạo được dấu ấn khi cộng tác với tuần báo Thanh niên do nhóm Thanh niên Tiền phong “mua lại manchette” để làm tiếng nói của cách mạng, tập hợp khá đông văn nghệ sĩ của cả ba miền đất nước.
Số đầu tiên của tuần báo Thanh niên do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ nhiệm, phát hành vào ngày 7/8/1943 lập tức gây được tiếng vang trong giới trí thức thời ấy. Tuần báo Thanh niên với khuynh hướng đoàn kết người Việt Nam khắp ba miền đất nước kháng Pháp, chống Nhật, đẩy mạnh phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ, chống lại sự chia rẽ của ngoại bang; đồng thời kêu gọi thanh niên người Việt Nam chung tay gánh vác trách nhiệm giải phóng dân tộc...
Nhưng chính với xu hướng cách mạng rõ rệt, tháng 9/1944 tờ tuần báo Thanh niên bị đóng cửa, nên nhà văn, nhà báo Dương Tử Giang tiếp tục cộng tác với các tờ báo khác như Dư luận của Dương Trung Thực và đặc biệt gắn bó với tờ Hạnh phúc do Lê Tràng Kiều, Hồ Tăng Ấn và Nguyễn Bính chủ trương. Thời gian này quân Nhật phát hành ồ ạt tờ giấy bạc 500 đồng dưới danh nghĩa Ngân hàng Đông Dương khiến đồng bạc bị phá giá, giá sinh hoạt của người dân nói chung, người dân Sài Gòn nói riêng lâm cảnh khó khăn do giá cả nhảy vọt. Là nhà văn, nhà báo chứng kiến cảnh dân tình lầm than, khốn khổ, một cổ hai tròng, Dương Tử Giang đã viết bài đăng trên tờ Hạnh phúc với nội dung đấu tranh trực diện, kêu gọi dân chúng vùng lên, vì vậy mà tờ báo bị đóng cửa, giám đốc, quản lý ra hầu tòa. Sau bài báo đã gây được tiếng vang kể trên, ông tích cực tham gia viết cho một số tờ báo cách mạng như Thanh niên mới, Ngày mai.
Từ sau Nam bộ kháng chiến (29/3/1945), hoạt động báo chí của ông tích cực hơn, sôi nổi hơn, nhiệt huyết hơn với rất nhiều bài báo thể hiện rõ tinh thần chống Pháp. Khi một số tờ báo cách mạng chuyển vào chiến khu, năm 1946 ông lập ra tờ Văn hóa và trực tiếp làm chủ nhiệm. Đây là tờ báo thể hiện rõ quan điểm ủng hộ kháng chiến, ca ngợi lãnh tụ, phản đối chính sách cai trị của nhà cầm quyền, đấu tranh đòi tự do ngôn luận báo chí, với tôn chỉ “đấu tranh cho thống nhứt (nhất) dân tộc, cho một nền hòa bình bền vững”.
Tờ Văn hóa số 1 ra ngày 10/11/1946 có 4 trang khổ 27x38cm, có 3 bài đăng trong mục “Anh hùng tạo thời thế” chiếm 3/5 tờ báo ca ngợi Nguyễn Ái Quốc và bài giới thiệu giáo sư Phạm Thiều, một trí thức của Sài Gòn (mục Nhân vật - lúc này giáo sư đã tham gia kháng chiến), đăng bài thơ “Ly rượu thọ” của Tố Hữu (mục thơ) khiến cả làng báo “tâm phục, khẩu phục”.
Theo cuốn “Hồi ký Mai Văn Bộ”, tờ Văn hóa số sau Tết Đinh Hợi (1947), Dương Tử Giang trong bài viết “Quyền tối thượng của nhà văn” đả kích thẳng tay chính sách kìm kẹp báo chí của chính quyền thực dân và tay sai, đồng thời đả kích quân đội Pháp, điều mà trước nay chưa có báo nào dám làm, nói rõ “quân đội Pháp sang Việt Nam không phải để bảo vệ cho ai cả mà chỉ để xâm chiếm một nước Việt Nam độc lập và có chủ quyền, để đập đầu trí thức, cướp bóc tài sản và giết hại người Việt Nam”. Chính vì bài báo này mà chính quyền thực dân Pháp đã tịch thu số báo, đóng cửa tờ báo và bắt giam ông hơn 9 tháng ở bót Catinat Sài Gòn. Ngày 16/10/1947 ông được trả tự do và lại tiếp tục dấn thân vào con đường đấu tranh bằng những bài báo sắc bén đầy nhiệt huyết cách mạng.
Đa tài và nghĩa dũng
Ngay sau khi ra tù, mặc dù luôn bị mật thám theo dõi, nhưng là người đã chọn “con đường tranh đấu, con đường sống” nhà văn, nhà báo Dương Tử Giang tích cực tham gia vào Ban biên tập tờ báo Nay… Mai, do nhà báo Khuông Việt (Lý Vĩnh Khuôn) đứng tên chủ biên. Nhưng tờ Nay…Mai ra số đầu ngày 19/5/1947 vì đăng bài và ảnh ca ngợi Hồ Chủ tịch lên trang nhất, nên ngay lập tức bị đình chỉ 2 tháng, rồi sau đó được tiếp tục xuất bản tới 19 số nữa thì bị đóng cửa hẳn.

Sau khi tờ Nay… Mai bị đóng cửa, Dương Tử Giang đã trở thành quản lý tờ Justice do Fernand le Gros làm giám đốc chính trị. Justice là tờ báo tiếng Pháp nhưng nội dung lại có xu hướng chống chính quyền nên tờ báo chỉ sống được 4 số từ ngày 4/3 đến 14/3/1948 là bị cấm xuất bản. Nhưng cũng chỉ mấy tháng sau, ông lại trở thành chủ biên tờ Phụ nữ do bà Lê Huỳnh Mai làm chủ nhiệm và tờ báo cũng chỉ xuất bản được 6 số từ ngày 1/5 đến 5/6/1948. Sau khi tờ Phụ nữ ngưng hoạt động, ông làm giám đốc kiêm chủ bút tuần báo Em - bộ mới của bà Nguyễn Minh Nguyệt, tòa soạn đặt ở 232 Galliéni (nay là Trần Hưng Đạo). Tờ báo Em ra số ngày 1/11/1948, ông cho đăng vở kịch trào lộng “Chuồng báo” với nội dung tư tưởng phê phán chính quyền quản lý báo chí giống như nhốt thú vật trong chuồng. Ngay sau đó, tờ Em bị đóng cửa vô thời hạn.
Ngày 9/5/1950, sau khi tham gia diễn thuyết tại đám tang nhà báo yêu nước kiên trung Nam Quốc Cang (bị chính quyền Sài Gòn sát hại ngày 6/5/1950), nhà văn, nhà báo Dương Tử Giang bị truy lùng ráo riết, nên tổ chức cách mạng đã bí mật đưa ông ra chiến khu ở miền Tây Nam bộ cùng với nhà báo Thiếu Sơn tổ chức làm báo Cứu quốc. Sau đó ông về làm việc ở Ban Văn nghệ, Sở Văn hóa - Thông tin Nam bộ và được giao nhiệm vụ thành lập đoàn tuồng. Vốn xuất thân là nhà văn đã viết nhiều cuốn tiểu thuyến như: Bịnh học (1937), Con gà và con cáo (1939), Tranh đấu (1949), Một vũ trụ sụp đổ (1949)… nên khi phụ trách đoàn tuồng ông đã sáng tác, dàn dựng nhiều vở tuồng để lưu diễn phục vụ cán bộ, quân, dân trong chiến khu và vùng tự do được công chúng yêu thích như: Trương Phi thủ Cổ thành, Tam Tạng thỉnh kinh, Nguyễn Trung Trực.
Năm 1954, sau khi Hiệp định Genève được ký kết, ông được tổ chức tin tưởng bố trí trở lại Sài Gòn để tiếp tục làm báo công khai nhằm tuyên truyền đường lối, chính sách của cách mạng, động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, tích cự đấu tranh đòi chính quyền Sài Gòn thực hiện nghiêm Hiệp định, tiến tới tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Trở lại Sài Gòn, ông và một số anh em kháng chiến ở chiến khu về cùng với những cán bộ kháng chiến hoạt động tại chỗ lập ra các tờ báo: Công lý, Điện báo, Duy tân để tiếp tục tuyên truyền đấu tranh cho hòa bình thống nhất đất nước, theo tinh thần của Hiệp định Genève. Nhưng trong chiến dịch khủng bố những người kháng chiến cũ của chính quyền Ngô Đình Diệm, ngày 8/10/1955 ông cùng các nhà văn, nhà báo: Lý Văn Sâm, Thiếu Sơn, Tư Mã Viện, Tô Nguyệt Đình… bị bắt với tội danh “thân cộng”. Tất cả được địch đưa về giam tại bót Catinat (Sài Gòn), sau đó đưa lên Trung tâm cải huấn Biên Hòa (nhà lao Tân Hiệp), Đồng Nai. Tại đây ông tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng Cộng sản trong nhà lao để tiếp tục tổ chức phong trào đấu tranh của các tù nhân chống lại sự đàn áp của địch. Tối 2/12/1956, ông cùng chi bộ đảng trong nhà tù tổ chức cuộc vượt ngục tập thể. Trong khi hơn 400 tù nhân (có nhà văn, nhà báo Lý Văn Sâm) tham gia vượt ngục thành công trở về, thì ông và hơn 20 tù nhân khác đã ngã xuống ngay ngoài cổng nhà lao, khi ấy ông mới 38 tuổi.
Sau ngày thống nhất đất nước nhà văn, nhà báo, liệt sĩ Dương Tử Giang được truy tặng Huy chương vì sự nghiệp báo chí và ở quận 5, TPHCM có một con đường mang tên ông, những người làm báo Đồng Nai cũng lấy tên ông đặt cho giải thưởng báo chí tỉnh nhà. Ông là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước, tâm huyết cống hiến hết mình cho sự nghiệp báo chí cách mạng một cách trọn vẹn, đúng như hai câu thơ ông đã viết: “Một thuở ra đi vì nghĩa lớn/Ngàn năm trẻ mãi với quê hương”.
LƯƠNG ĐỊNH