Nội vụ & Xã hộiIn bài này (Ctrl + P)
Tác giả: CTV

Sự kết tinh khát vọng giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam

Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là văn kiện lịch sử ghi dấu mốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thời hiện đại.

Nhìn lại 80 năm qua, Tuyên ngôn Độc lập vẫn thể hiện mạnh mẽ sức sống, sức lan tỏa và trường tồn cùng lịch sử dân tộc. Những giá trị quý báu này được tạo lập và khẳng định bởi nhiều yếu tố, trong đó có một yếu tố Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh khát vọng giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam.

Tuyên ngôn Độc lập ra đời ngày 2/9/1945 trong buổi lễ mít tinh của hàng chục vạn người dân Việt Nam tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Tại buổi lễ này, thay mặt cho Chính phủ cách mạng lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố trước đồng bào cả nước và nhân dân thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây chính là sự khẳng định thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 - cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình trong thế kỷ XX, cuộc cách mạng được sự ủng hộ đông đảo, rộng rãi của các giai tầng ở các địa phương trong cả nước và đồng thời cũng đáp ứng được những khát vọng, nhất là khát vọng được giải phóng của muôn triệu con tim khối óc nhân dân Việt Nam.

Điều trước hết cần phải khẳng định là Tuyên ngôn Độc lập đã kết tinh và thể hiện mạnh mẽ khát vọng giải phóng của dân tộc    Việt Nam. Sau khi xâm lược và thiết lập ách thống trị trên toàn Việt Nam, thực dân Pháp đã thi hành những chính sách phản động và tàn bạo, đi ngược lại với lý tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” của Cách mạng Pháp và cũng cho thấy thực chất của cái gọi là “khai hóa văn minh”, với những nhà khai hóa mang “tâm địa thực dân”. Về chính trị, chúng thi hành chính sách chuyên chế tàn bạo, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, đàn áp đẫm máu các phong trào đấu tranh. “Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi châm ngôn “chia để trị”. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, một dòng máu, một phong tục, một lịch sử, một truyền thống, một tiếng nói đã bị chia năm xẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau”.

Về kinh tế, thực dân Pháp thi hành chính sách vơ vét tài nguyên, khoáng sản của dân tộc ta để phục vụ kinh tế chính quốc. Chúng thi hành chính sách độc quyền kinh tế, nắm độc quyền về xuất nhập khẩu, khai thác mỏ, giao thông vận tải, ngân hàng, độc quyền thuốc phiện, rượu, muối... Phản động hơn, chúng vẫn duy trì và dung dưỡng quan hệ sản xuất phong kiến đã lỗi thời, lạc hậu.

Về văn hoá, thực dân Pháp triệt để thi hành “chính sách ngu dân” và ra sức bưng bít, ngăn chặn ảnh hưởng những sách báo, tư tưởng tiến bộ vào Việt Nam, kể cả những sách báo, tư tưởng tiến bộ của nước Pháp.

Sự xâm lược và thiết lập ách thống trị tàn bạo, phản động của thực dân Pháp làm xuất hiện mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với những kẻ thống trị ngoại bang - mâu thuẫn bao trùm và gay gắt nhất trong lòng xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ngoại trừ một số ít kẻ cam tâm làm tay sai, bán nước, đại đa số người dân Việt Nam đều có chung khát vọng là đánh đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập, chủ quyền của đất nước, xây dựng một cuộc sống mới tự do hơn, hạnh phúc hơn.

Lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ghi nhận sự xuất hiện của nhiều phong trào đấu tranh yêu nước. Đó vừa là sự tiếp nối, phát huy truyền thống yêu nước bất khuất, không cam chịu ách thống trị ngoại bang của dân tộc; đồng thời vừa là sự thể hiện khát vọng giải phóng của dân tộc trong cảnh nước mất nhà tan.

Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử dân tộc Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX cho thấy các phong trào đấu tranh yêu nước đều lần lượt bị thất bại, đều bị chính quyền thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và khủng bố tàn bạo, đẫm máu.

Sự kết tinh khát vọng giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam - 1

Hơn lúc nào hết sự nghiệp giải phóng đất nước trở nên vô cùng bức thiết, nhưng lại bị bế tắc chưa biết thực hiện theo cách thức như thế nào. Chính trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã đi tìm và tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Con đường cứu nước này không chỉ đáp ứng được mục tiêu, lý tưởng của Người về giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân, mà còn là khát vọng chung của toàn thể dân tộc.

Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào yêu nước Việt Nam và mang lại kết quả hết sức to lớn. Dù thực dân Pháp và tay sai tăng cường khủng bố, đàn áp, giết hại và đày ải nhiều người con ưu tú của Đảng, của dân tộc, nhưng phong trào yêu nước vẫn ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Tháng Tám năm 1945, với sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng cách mạng và sự chuyển biến hết sức thuận lợi của tình hình thế giới và trong nước, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn ra thành công rực rỡ, mau lẹ và ít đổ máu.

Tuyên ngôn Độc lập chính là sự tái thể hiện và khẳng định thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, thành quả của cuộc cách mạng đáp ứng lòng mong mỏi của toàn dân, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, nam nữ, dân tộc, vùng miền... Đó cũng là thành quả của khát vọng được giải phóng khỏi những gông xiềng nô lệ, giành lại quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của người dân Việt Nam.

Mặt khác, Tuyên ngôn Độc lập - sự kết tinh khát vọng phát triển của dân tộc Việt Nam. Giải phóng và phát triển là những giá trị gắn bó mật thiết với nhau. Giải phóng là cơ sở, tiền đề để phát triển; phát triển là sự khẳng định và tiếp nối thành quả của giải phóng, là định hướng cho giải phóng và là bước đi tiếp theo của giải phóng trên hành trình đi đến dựng xây một xã hội mới, một cuộc đời mới tiến bộ hơn và hạnh phúc hơn.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, sau mỗi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, đất nước thường bước vào một giai đoạn phát triển mới hưng thịnh. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc mới chỉ là bước đầu tiên trong sự nghiệp cách mạng giải phóng, là bước tiền đề để đi đến mục tiêu cao cả là giải phóng triệt để con người, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự cho mọi người dân. Chính vì vậy, Người đã chỉ rõ rằng, nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do hạnh phúc, nước được độc lập mà dân vẫn đói, vẫn rét, vẫn khổ, vẫn trong tình trạng dốt nát, không được học hành thì nền độc lập đó cũng không có giá trị gì.

Trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng những lời trích dẫn từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Cách mạng Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Đó là những giá trị chung của nhân loại tiến bộ, thể hiện khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, con người được tạo môi trường thuận lợi để phát triển. Đó cũng là giá trị, khát vọng bức thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam, nhất là đang trong tình cảnh đất nước bị xóa tên trên bản đồ thế giới, người dân cực khổ, lầm than dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai.

Từ góc nhìn của một người dân thuộc địa và sự thấu hiểu về cảnh nước mất nhà tan, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc khát vọng đổi đời, được giải phóng và có cuộc sống mới ấm no, tự do, hạnh phúc hơn của dân tộc. Chính vì vậy, trong hành trình tìm đường cứu nước, Người đã khảo sát, tìm hiểu nhiều con đường, nhiều xu hướng cứu nước và phát triển xã hội khác nhau. Người đánh giá cao những lý tưởng, giá trị cuộc Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến chuyên chế và chủ nghĩa thực dân. Người cũng chắt lọc, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của hai cuộc cách mạng nổi tiếng này. Nhưng xét về bản chất, Người vẫn nhận rõ và chỉ ra rằng Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp đều là những cuộc cách mạng chưa đến nơi, chưa triệt để, cách mạng giành được thắng lợi, nhưng thành quả chỉ rơi vào một thiểu số người, cách mạng giành được thắng lợi, nhưng những người lao động như công nhân, nông dân vẫn phải mưu tính làm cách mạng một lần nữa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định và lựa chọn con đường đi của dân tộc Việt Nam trong hành trình giải phóng dân tộc và xây dựng, phát triển xã hội mới là đi theo con đường cách mạng vô sản với tấm gương tiêu biểu là Cách mạng tháng Mười Nga. Bởi cuộc cách mạng này hướng đến xây dựng một xã hội mới tiến bộ, tốt đẹp dành cho tất cả mọi người dân, dù là người lao động bình thường hay những người ở tầng lớp trên, ai cũng có giá trị và có quyền thừa hưởng những giá trị của cuộc sống mới, đồng thời có trách nhiệm góp phần dựng xây cuộc sống mới đó.

Con đường cách mạng vô sản từ sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành sự lựa chọn của dân tộc Việt Nam trong hành trình giải phóng và phát triển. Đó chính là điểm khởi đầu để đưa đến thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, cuộc cách mạng là một trong những sự kiện vĩ đại của lịch sử dân tộc Việt Nam thời hiện đại, là mốc son và cũng là một trong những minh chứng về sự lựa chọn, đi theo con đường cách mạng vô sản của dân tộc Việt Nam.

Tuyên ngôn Độc lập đã đánh dấu sự sụp đổ của chế độ thống trị thực dân phong kiến ở Việt Nam, đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử dân tộc. Từ nay nhân dân Việt Nam chính thức làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh trong tương lai của chính bản thân dân tộc, quyết định con đường phát triển tương lai của đất nước, của dân tộc.

Nắm bắt khát vọng phát triển của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đất nước được giải phóng xong thì phải đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để đảm bảo vững chắc thành quả của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đồng thời, xây dựng chủ nghĩa xã hội là để mang lại cuộc sống thực sự ấm no, tự do, hạnh phúc cho tất cả các thành viên trong xã hội.

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là sự khẳng định mạnh mẽ về nền độc lập của dân tộc Việt Nam và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà còn là sự tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới về một trang sử mới, trang sử của phát triển, của cuộc sống độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc mà nhân dân Việt Nam có quyền được hưởng, là lẽ phải không ai chối cãi được và không ai có thể ngăn cản được.

80 năm qua, Tuyên ngôn Độc lập vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa hiện nay. Tuyên ngôn Độc lập vẫn thể hiện sức sống mạnh mẽ, đồng hành cùng sự phát triển của dân tộc Việt Nam trên con đường độc lập, tự do, hạnh phúc, vì một nước Việt Nam phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc năm châu. Bởi đây là văn kiện lịch sử đã kết tinh khát vọng giải phóng và phát triển của dân tộc.

PGS, TS Lý Việt Quang - Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)

Link nội dung: https://noivuxahoi.dantri.com.vn/dat-nuoc-con-nguoi/su-ket-tinh-khat-vong-giai-phong-va-phat-trien-cua-dan-toc-viet-nam-20250828154009370.htm