Dấn thân từ “đoàn vệ quốc quân”
Cố nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sinh ngày 11/11/1924, tại Đà Nẵng, nguyên quán ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (cũ) ông là con thứ 11 trong gia đình có cha là thợ may. Tuổi thơ ông luôn đắm chìm trong những làn điệu dân ca, câu hò của vùng đất xứ Quảng nên tình yêu và sự gắn bó với âm nhạc như một điều tự nhiên trong tâm hồn. Ông đến với âm nhạc và bắt đầu hoạt động từ năm 1940, tham gia trong nhóm tân nhạc ở Đà Nẵng. Ngay sáng tác đầu tay - ca khúc “Trầu cau” (1940), khi ông mới 16 tuổi đã tạo được dấu ấn riêng, phổ biến rộng rãi trong công chúng yêu âm nhạc thời ấy. Sau ca khúc “Trầu cau”, những sáng tác của ông trở nên nổi tiếng bởi tiết tấu, giai điệu, ca từ hào hùng, mạnh mẽ với “Mùa đông binh sĩ” và “Đoàn Vệ quốc quân”.

Chân dung cố nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu.
Về ca khúc “Đoàn Vệ quốc quân” (1945) ra đời sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời đã phải đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp khi chúng quay lại tái chiếm Việt Nam. Khi ấy, lực lượng vũ trang cách mạng non trẻ với Vệ quốc quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam). Trong bối cảnh ấy, ca khúc “Đoàn Giải phóng quân”, sau đổi thành “Đoàn Vệ quốc quân” của cố nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu vang lên như một lời hịch cứu nước của cả dân tộc.
“Đoàn Vệ quốc quân” với cấu trúc nhịp hành khúc 2- 4 làm cho người hát, người nghe luôn cảm thấy rạo rực, thôi thúc như những bước chân hành quân hối hả, hùng hồn thể hiện khí thế của quân và dân ta, trở thành biểu tượng âm nhạc gắn liền với những trang sử oanh liệt của dân tộc.
Ca khúc thể hiện rõ tinh thần và lý tưởng của người nhạc sẽ trẻ tài hoa, đó không chỉ là lời kêu gọi bảo vệ non sông Tổ quốc mà còn là lời khẳng định ý chí quyết tâm, sẵn sàng đối mặt với gian nguy, hy sinh vì độc lập, tự do. Trải qua 80 năm thăng trầm của lịch sử, cho đến nay “Đoàn Vệ quốc quân” vẫn trong top các ca khúc tiêu biểu nhất về Cách mạng tháng Tám 1945.
Gắn bó và trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến
Có thể nói, “Đoàn Vệ quốc quân” đã vận vào cuộc đời binh nghiệp và sáng tác âm nhạc của cố nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu gắn bó, trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ.
Tháng 12/1946, Toàn quốc kháng chiến nổ ra, ông rời Đà Nẵng tham gia quân đội, hoạt động ở Liên khu 5. Trong giai đoạn này ông sáng tác nhiều ca khúc về tình yêu quê hương, đất nước, ca ngợi Bác Hồ kính yêu.
Ca khúc “Nhớ ơn Hồ Chủ tịch” thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với Bác Hồ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này. “Quê tôi ở miền Nam” mang âm hưởng trữ tình, ca ngợi vẻ đẹp của vùng đất và con người miền Nam, thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng của ông, được nhiều người yêu thích.
Năm 1955, ông đưa gia đình tập kết ra Bắc, nhận công tác tại Ban Nhạc vũ (Hội Văn nghệ Việt Nam). Năm 1957, Hội Nhạc sĩ Việt Nam được thành lập, ông được tín nhiệm cử vào Ban Chấp hành và là Ủy viên Thường vụ, công tác tại Hà Nội.
Những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, ông thăng hoa với hàng loạt ca khúc mang âm hưởng trữ tình, lãng mạn cách mạng với giai điệu, ca từ trau chuốt, thể hiện khát vọng hòa bình, non sông thống nhất. Trong số đó nổi bật là ca khúc “Những ánh sao đêm” (1962) làm xao động trái tim người nghe bao thế hệ…
Năm 1964, nhận lệnh chi viện cho chiến trường khu 5, đúng vào đêm Noel (24/12), ông chia tay vợ con, rời Hà Nội trở lại mảnh đất mà ông từng gắn bó trong những năm kháng chiến chống Pháp. Đây là giai đoạn ông phải trải qua nhiều thử thách vất vả và nguy hiểm. Nhưng chính những năm tháng sống, chiến đấu ở chiến trường Khu 5 ác liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông đã cho ra đời nhiều ca khúc mang âm hưởng hào hùng thể hiện ý chí tiến công của người lính nơi chiến trận, sẵn sàng đối mặt với với gian khổ, hy sinh như: “Ra tuyền tuyến”, “Xé xác Rồng Xanh”. Ông đã sử dụng âm nhạc như một vũ khí để động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân Khu 5, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến.

Nhắc đến cố nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, nhiều nhạc sĩ nổi tiếng khẳng định, ông là một bậc thầy về phổ nhạc cho nhiều bài thơ thành những ca khúc trữ tình bất hủ. Trong thời gian ở chiến trường Khu 5 và Tây Nguyên khi đã thấu cảm được âm điệu tâm hồn, cảnh sắc của con người và vùng đất Tây Nguyên huyền thoại, tháng 8/1971 khi được ra Bắc để chữa bệnh, chỉ trong một thời gian ngắn ông đã phổ nhạc rất thành công bài thơ “Bóng cây Kơ - nia”, một bài thơ của nhà thơ Ngọc Anh phỏng dịch từ dân ca Hrê. Ca khúc “Bóng cây Kơ - nia” được nhiều ca sĩ yêu thích và thể hiện.
Sau thành công của ca khúc “Bóng cây Kơ - nia”, ông càng thêm đam mê phổ nhạc để “chắp cánh” cho những bài thơ hay, giàu nhạc tính khác của các nhà thơ mà ông đọc được. Vì thế, năm 1971, khi vẫn còn nằm trên gường bệnh, ông bắt gặp “Bài thơ tình yêu” của nhà thơ Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc) đăng báo, nên đã phổ nhạc nguyên phần III (đoạn kết) của bài thơ thành ca khúc nổi tiếng “Cuộc đời vẫn đẹp sao”. Khi ca sĩ Quốc Hương vào thăm, ông đã giao ca khúc “Cuộc đời vẫn đẹp sao” cho giọng ca danh tiếng này thể hiện đem lại thành công ngoài mong đợi, trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu trong dòng nhạc cách mạng. “Cuộc đời vẫn đẹp sao/Tình yêu vẫn đẹp sao/Dù đạn bom man rợ thét gào/Dù thân thể thiên nhiên mang đầy thương tích/Dù xa cách hai ngả đường chiến dịch/Ta vẫn còn chung một ánh trăng ngần”…
Thành công nối tiếp thành công, năm 1972 tình cờ phát hiện bài thơ “Ngày và đêm” của nhà thơ Bùi Công Minh đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông rất tâm đắc và quyết định phổ nhạc, với một phong cách riêng, biến một bài thơ tình yêu lứa đôi thành một hành khúc, nhưng vẫn đượm chất trữ tình. “Hành khúc ngày và đêm”, ngay sau đó được phổ biến rộng rãi qua làn sóng phát thanh Đài Tiếng nói
Việt Nam do ca sĩ Phan Huấn thể hiện, trở thành hành khúc nằm lòng của giới trẻ thời ấy. “Rất dài và rất xa/Là những ngày thương nhớ/Nơi cháy lên ngọn lửa/Là trái tim yêu thương”. Qua hàng loạt những ca khúc phổ nhạc từ thơ của nhiều nhà thơ cho thấy, ông là một nhạc sĩ vận dụng chất liệu, âm hưởng dân ca vùng miền thật nhuần nhuyễn, giúp cho những nhạc phẩm của ông trở nên gần gũi, dễ tiếp cận đối với công chúng.
Năm 1973, bài thơ “Gửi…” của nhà thơ Thúy Bắc ra đời với hình thức, kết cấu độc đáo có sức lay động, lôi cuốn để lại dư âm sâu sắc trong lòng độc giả. Đặc biệt, khi bài thơ “Gửi…” được ông phổ nhạc thành ca khúc “Sợi nhớ sợi thương” với âm điệu dân ca Hà Tĩnh ngọt ngào, nội dung trữ tình da diết, sâu lắng càng khơi gợi nhiều cảm xúc trong lòng người nghe. “Sợi nhớ sợi thương” được âm nhạc “chắp cánh” là một trong những bản tình ca nổi tiếng, khẳng định sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của tình yêu trong chiến tranh.
Có thể nói, ông là một nhạc sĩ rất có duyên phổ nhạc cho những bài thơ tình được các nhà thơ viết trong chiến tranh, nhất là trong thời chống Mỹ. Bài thơ “Gửi miền hạ” của nhà thơ Hoài Vũ đã được ông phổ nhạc thành khúc tình ca “Anh ở đầu sông em cuối sông” vào năm 1978 là một nhạc phẩm như thế. Bản tình khúc này được ông sử dụng điệu thức của dân ca Nam Bộ, thể hiện tình yêu gắn bó của đôi nam nữ đang chiến đấu kiên cường chống giặc ở hai đầu con sông Vàm Cỏ Đông. Đặc biệt “Thuyền và biển”, “Thư tình cuối mùa thu” mà ông phổ nhạc từ hai bài thơ cùng tên của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh được coi là hai nhạc phẩm có thành tựu lớn trong việc kết hợp thơ và nhạc. Đây là hai ca khúc chạm đến trái tim người nghe bởi sự đồng điệu trong cảm xúc, dù đã ra đời khá lâu năm, nhưng vẫn luôn được yêu thích và vang vọng trong lòng khán giả bao thế hệ, minh chứng cho tài năng của cố nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu.
Phan Huỳnh Điểu là một trong những nhạc sĩ có nhiều đóng góp to lớn cho nền âm nhạc Việt Nam, đặc biệt là dòng nhạc cách mạng thế kỷ XX. Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2000.
Lương Diệp Phong