Theo dự thảo, mức lương thực nhận của Chủ tịch doanh nghiệp Nhà nước có thể lên tới 320 triệu đồng/tháng nếu lợi nhuận đạt mức vượt trội.
Theo dự thảo Nghị định, chế độ tiền lương của người đại diện chủ sở hữu, người đại diện phần vốn Nhà nước và kiểm soát viên tại doanh nghiệp Nhà nước sẽ thay đổi theo hướng linh hoạt, gắn chặt với kết quả sản xuất, kinh doanh thực tế của doanh nghiệp. Cụ thể, mức lương cơ bản sẽ được xác định dựa trên các chỉ tiêu như quy mô vốn, doanh thu, lợi nhuận và phân chia theo hai nhóm: nhóm I (tập đoàn, tổng công ty) và nhóm II (doanh nghiệp độc lập).
Mức lương cơ bản cao nhất hiện tại theo dự thảo là 80 triệu đồng/tháng đối với Chủ tịch doanh nghiệp nhóm I - mức 1. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp đạt hoặc vượt lợi nhuận kế hoạch, Chủ tịch và các thành viên hội đồng có thể được nhận mức lương tăng gấp nhiều lần so với cơ bản.

Theo dự thảo, tiền lương thực nhận có thể tăng gấp đôi nếu doanh nghiệp đạt đúng kế hoạch lợi nhuận. Trường hợp doanh nghiệp có lợi nhuận vượt xa chỉ tiêu tối thiểu, mức lương có thể tăng từ 2,5 đến 4 lần so với lương cơ bản. Cụ thể: Lợi nhuận gấp 2 lần mức tối thiểu: Lương thực nhận tối đa = 2,5 lần lương cơ bản (tương đương 200 triệu đồng/tháng); lợi nhuận gấp 3 lần: Tối đa 3 lần lương cơ bản (240 triệu đồng/tháng); lợi nhuận gấp 5 lần trở lên: Tối đa 4 lần lương cơ bản (320 triệu đồng/tháng). Như vậy, với mức lương cơ bản 80 triệu đồng/tháng, Chủ tịch doanh nghiệp Nhà nước có thể nhận tới 320 triệu đồng nếu đơn vị đạt mức lợi nhuận cao vượt trội, giữ vai trò trọng yếu trong nền kinh tế và có hiệu quả vượt trội so với mặt bằng chung.
Bộ Nội vụ cho biết, việc xây dựng cơ chế lương linh hoạt là nhằm đảm bảo sự cạnh tranh với thị trường, đồng thời ghi nhận nỗ lực, đóng góp thực chất của người đại diện vốn Nhà nước trong điều hành hoạt động doanh nghiệp. Trên thực tế, hiện có doanh nghiệp thuộc khối ngân hàng đang chi trả mức lương 200 - 210 triệu đồng/tháng cho Chủ tịch. Cá biệt, có đơn vị trả mức 300 triệu đồng/tháng. Vì vậy, đề xuất khung lương tối đa 320 triệu đồng không vượt ra khỏi thực tiễn và là căn cứ để minh bạch hóa việc chi trả, tạo cơ chế động lực đúng đắn cho đội ngũ quản lý doanh nghiệp Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp không đạt kế hoạch hoặc hoạt động kém hiệu quả, mức lương cũng sẽ bị điều chỉnh theo hướng giảm mạnh. Cụ thể: Doanh nghiệp không có lợi nhuận: Lương tối đa bằng 70% lương cơ bản; doanh nghiệp lỗ: Lương tối đa bằng 50% lương cơ bản. Trường hợp doanh nghiệp lỗ nhưng có dấu hiệu cải thiện (giảm lỗ): Lương tối đa bằng 80% lương cơ bản. Như vậy, thay vì áp dụng mức cứng, cơ chế trả lương sẽ linh hoạt theo thực trạng tài chính và hiệu quả kinh doanh, tạo động lực rõ ràng cho lãnh đạo doanh nghiệp phải đặt mục tiêu thực chất, tránh tình trạng “ngồi mát ăn bát vàng”.
Dự thảo cũng quy định rõ đối tượng áp dụng gồm: Người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, kiểm soát viên tại doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước. Người đại diện phần vốn Nhà nước tại công ty cổ phần hoặc công ty TNHH 2 thành viên trở lên mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn. Phương pháp xác định quỹ tiền lương gồm hai cách: Xác định qua mức tiền lương bình quân; xác định qua đơn giá tiền lương ổn định (áp dụng với doanh nghiệp có thời gian hoạt động ổn định). Ngoài ra, dự thảo cũng linh hoạt trong cách xác định lương đối với doanh nghiệp vừa hoạt động sản xuất, kinh doanh, vừa thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công.
Vũ Hằng