Lần đầu tiên trong lịch sử đại hội, toàn bộ định hướng phát triển quốc gia từ đường lối chính trị, chiến lược kinh tế - xã hội đến xây dựng Đảng được trình bày trong một văn kiện duy nhất. Việc hợp nhất này thể hiện mục tiêu gắn kết giữa 3 trụ cột: Thể chế, kinh tế và con người - khắc phục tình trạng chia tách giữa định hướng chính trị, kế hoạch phát triển và tổ chức thực thi trong hệ thống.
Dự thảo nhìn lại 40 năm đổi mới, đánh giá Việt Nam đã đạt những kết quả "rất quan trọng, toàn diện, đột phá, nhiều điểm sáng nổi bật". Giai đoạn 2021 - 2025, tăng trưởng GDP bình quân 6,3% mỗi năm, quy mô kinh tế hơn 510 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng 5.000 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước có thu nhập trung bình cao. Hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ, đời sống nhân dân, quốc phòng và đối ngoại đều có bước tiến rõ rệt.
Tuy vậy, dự thảo cũng chỉ ra các hạn chế như: Thể chế còn chồng chéo, tăng trưởng dưới tiềm năng, năng lực công nghệ thấp, khoa học - đổi mới sáng tạo chưa thành động lực chính, phân hóa xã hội còn tăng.
Từ đó, văn kiện xác định giai đoạn 2026 - 2030 phải là bước ngoặt để Việt Nam chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, với trọng tâm là thể chế linh hoạt, kinh tế xanh và con người sáng tạo - nền tảng cho một xã hội phát triển tự cường. Văn kiện đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chủ yếu 5 năm 2026 - 2030. Về kinh tế, có hai chỉ tiêu rất quan trọng là đạt tốc độ tăng trưởng cho giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên; GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500USD.
Cần coi đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm cho tăng trưởng

TS Nguyễn Trí Hiếu
Theo chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Trí Hiếu để hiện thực hóa các mục tiêu mà dự thảo báo cáo Chính trị Đại hội đề ra, Việt Nam phải cải cách thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và phát huy các động lực tăng trưởng mới; cần tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình, hoàn thiện khung pháp lý cho các lĩnh vực mới như kinh tế số, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo.
“Việt Nam cần coi đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm cho tăng trưởng. Chính phủ nên khuyến khích hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo vùng, kết nối doanh nghiệp - trường đại học - viện nghiên cứu, tạo hệ sinh thái thúc đẩy sáng tạo”, TS Nguyễn Trí Hiếu khuyến nghị.
Ngoài ra, Việt Nam phải giữ vững ổn định vĩ mô và tăng cường tính tự chủ. Các chính sách kinh tế độc lập, dựa trên năng lực nội sinh được triển khai song song với hội nhập quốc tế sâu rộng. Khu vực kinh tế trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, cần được củng cố để giảm phụ thuộc vào khu vực FDI.
Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, hiện khu vực tư nhân đóng vai trò động lực chính của nền kinh tế. Để đạt mục tiêu tốp 30 nền kinh tế hàng đầu, Việt Nam cần huy động mọi nguồn lực, tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước lớn mạnh, vươn ra khu vực và toàn cầu. Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, khuyến khích hình thành tập đoàn tư nhân tầm khu vực, phát triển các chuỗi giá trị nội địa.
Việt Nam đặt trọng tâm vào 3 đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ. Hệ thống hạ tầng giao thông - năng lượng - đô thị - số đang được đầu tư mạnh, với các công trình trọng điểm như: Cao tốc Bắc - Nam, sân bay Long Thành, tuyến đường sắt tốc độ cao, cảng biển và trung tâm logistics quốc tế. Những dự án này không chỉ tạo đột phá về kết nối mà còn mở rộng không gian phát triển kinh tế vùng…
Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường

Còn theo PGS, TS Bùi Thị An, Viện trưởng Viện Tài nguyên, Môi trường và Phát triển cộng đồng, dự thảo báo cáo Chính trị Đại hội XIV của Đảng thể hiện rõ tư duy đổi mới, phát triển bền vững, đặt con người ở vị trí trung tâm.
Theo bà An, lần này dự thảo báo cáo Chính trị “ngắn gọn, súc tích nhưng bao quát toàn diện chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường”, đồng thời nhấn mạnh tinh thần phát triển bền vững và khát vọng đưa đất nước tiến lên hiện đại, tự cường. Việc dự thảo báo cáo Chính trị dành một phần quan trọng cho nội dung “hoàn thiện đồng bộ thể chế, phát triển nhanh và bền vững” là bước tiến lớn về tư duy phát triển.
“Đặc biệt, dự thảo báo cáo Chính trị đã gắn liền phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, nhấn mạnh mô hình kinh tế xanh, phát triển xanh, hướng tới tương lai bền vững - đó là tầm nhìn chiến lược rất đáng ghi nhận”, bà An nhấn mạnh.
PGS, TS Bùi Thị An cho rằng, phát triển xanh phải được hiểu một cách toàn diện với 4 cấu phần: Kinh tế xanh, quản trị xanh, công nghệ xanh và xã hội xanh. Trong đó, kinh tế xanh là sản xuất và tiêu dùng thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên; quản trị xanh là quy hoạch, thể chế và quản lý tài nguyên minh bạch, hiệu quả; công nghệ xanh là lựa chọn công nghệ giảm phát thải, hướng tới trung hòa carbon; còn xã hội xanh gắn liền với chất lượng sống, giáo dục, y tế và hạnh phúc con người. Bên cạnh đó, cần tiếp cận các vấn đề dân sinh, đô thị như ùn tắc, úng ngập, ô nhiễm không khí dưới góc nhìn phát triển kinh tế xanh.
Theo PGS, TS Bùi Thị An, môi trường phải là một trụ cột xuyên suốt trong chiến lược phát triển. Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã có chủ trương “không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng” nhưng quan trọng là cụ thể hóa bằng trách nhiệm, cơ chế và giám sát rõ ràng: Ai chịu trách nhiệm khi để xảy ra ô nhiễm, ai giám sát mục tiêu phát triển xanh?
Từ đó, bà đề nghị nội dung về môi trường, giao thông xanh, phát triển bền vững phải được cụ thể hóa thành chủ trương trong Văn kiện Đại hội và kế hoạch hành động rõ ràng ở từng cấp, từng địa phương, gắn với lộ trình thực hiện đến năm 2030. "Nếu không có lộ trình và trách nhiệm rõ ràng, chúng ta sẽ khó đạt được những cam kết phát triển bền vững đã đặt ra", bà An lưu ý.
Một trong những điểm mà văn kiện nhấn mạnh là vai trò của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, cùng đó là chuyển đổi số hướng tới phát triển bền vững.
Theo bà An, đây chính là nguồn lực của quốc gia, là nền tảng để Việt Nam đi tới tự lực, tự cường”. Bà đề nghị bổ sung rõ hơn các cơ chế cụ thể để thu hút và giữ chân người tài, nhất là trong lĩnh vực khoa học - công nghệ. “Nếu chỉ dừng ở mức nêu nguyên tắc thì khó thực hiện. Cần có cơ chế cụ thể để thu hút nhân tài, tạo môi trường làm việc tốt, đánh giá công bằng và đãi ngộ tương xứng”.
Phát triển con người và nâng cao chất lượng cuộc sống

Còn theo bà Trần Khánh Thu (đoàn Đại biểu Quốc hội Hưng Yên), dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV của Đảng đã đưa ra mục tiêu trong giai đoạn 2026 - 2030, chỉ số phát triển con người (HDI) phấn đấu đạt khoảng 0,78; tuổi thọ trung bình tính từ lúc sinh đạt khoảng 75,5 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm. Đồng thời, nhấn mạnh việc xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả, bền vững; tập trung nâng cao chất lượng và kỹ năng trong công tác phòng bệnh, khám, chữa bệnh, kiểm soát tốt dịch bệnh…
Đại biểu Trần Khánh Thu đánh giá, trong nhiệm kỳ qua, việc phát triển văn hóa, con người và xã hội đã đạt kết quả rất quan trọng, nhiều mặt tiến bộ, đặc biệt, an sinh xã hội và đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Trong đó, hệ thống y tế và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có bước phát triển tích cực, chất lượng được nâng lên, kiểm soát tốt các loại dịch bệnh, làm chủ nhiều công nghệ, kỹ thuật y học tiên tiến…
Tuy nhiên, để biến chủ trương mà dự thảo báo cáo Chính trị đặt ra thành hiện thực, đại biểu cho rằng cần huy động đồng bộ 3 nguồn lực: Phát triển BHYT toàn dân với nhiều hình thức linh hoạt; bố trí ngân sách Nhà nước đầu tư cho y tế chuyên sâu và vùng khó khăn; đồng thời thúc đẩy xã hội hóa, kêu gọi doanh nghiệp, nhà hảo tâm và các quỹ an sinh cùng tham gia. Nếu làm tốt cả 3 nguồn lực này, với đà tăng trưởng kinh tế hiện tại và quyết tâm của toàn xã hội, mục tiêu đến năm 2030, người dân được miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi quyền lợi BHYT theo lộ trình là khả thi.







