Kế thừa tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách phát triển quốc gia đặt con người vào vị trí trung tâm, coi việc nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo hạnh phúc của nhân dân là thước đo thành công.
Hành trình xóa đói giảm nghèo: Từ “cơm no, áo ấm” đến “hạnh phúc đủ đầy”
Ngay sau đổi mới, Việt Nam đã kiên trì thực hiện các chính sách giảm nghèo với 8 lần ban hành chuẩn nghèo, liên tục điều chỉnh theo hướng nâng cao mức sống và nhu cầu cơ bản của người dân.
Giai đoạn 1993 - 1995, chuẩn nghèo quy định: Hộ đói có bình quân thu nhập đầu người quy theo gạo/tháng dưới 13kg đối với thành thị, dưới 8kg đối với khu vực nông thôn. Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy theo gạo/tháng dưới 20kg đối với thành thị, dưới 15kg đối với khu vực nông thôn. Đến giai đoạn 2001 - 2005, khái niệm “hộ đói” không còn xuất hiện trong quy chuẩn, còn định nghĩa “hộ nghèo” là hộ có thu nhập bình quân đầu người tại vùng nông thôn miền núi, hải đảo ở mức 80.000 đồng/người/tháng; vùng nông thôn đồng bằng ở mức 100.000 đồng/người/tháng; vùng thành thị 150.000 đồng/người/tháng.
Từ giai đoạn 2016 - 2020, chúng ta bắt đầu áp dụng “chuẩn nghèo đa chiều” bao gồm: Tiêu chí về thu nhập, mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, thông tin); tiêu chí cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ có thu nhập trung bình. Giai đoạn 2021 - 2025, bộ tiêu chí đo lường nghèo đa chiều có tiêu chí thu nhập, khu vực nông thôn 1,5 triệu đồng/người/tháng, khu vực thành thị 2 triệu đồng/người/tháng.
Những điều chỉnh đó không chỉ phản ánh nỗ lực giảm nghèo mà còn cho thấy sự chuyển đổi trong tư duy phát triển từ “giảm nghèo về lượng” sang “giảm nghèo về chất”, đảm bảo mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận dịch vụ thiết yếu. Kết quả đạt được rất ấn tượng: Từ 58,1% hộ nghèo năm 1993 đến năm 2015 chỉ còn 9,88%. Năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều chỉ còn 1,93%, tương đương gần 600.000 hộ. Tính cả hộ nghèo và cận nghèo, tỷ lệ cũng chỉ còn 4,06%, giảm 1,65% so với năm 2023. Đây là minh chứng hùng hồn cho tính hiệu quả và bền vững của chính sách.

Muốn xây dựng quốc gia hạnh phúc, trước hết phải có nền tảng kinh tế vững mạnh. Từ sau 1975, nền kinh tế Việt Nam xuất phát điểm rất thấp, quy mô chưa đầy 22 tỷ USD. Giai đoạn 1976 - 1980, tăng trưởng chỉ đạt 1,4%/năm, thậm chí năm 1980 tăng trưởng âm.
Tuy nhiên, với đường lối đổi mới đúng đắn, kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến thần tốc. Năm 2024, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 476,3 tỷ USD, gấp gần 129 lần so với năm 1975 và đứng thứ 24 thế giới về quy mô theo sức mua tương đương (PPP). Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo năm 2025, con số này sẽ vượt mốc 506 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 96 USD năm 1989 lên 4.700 USD năm 2024, tức gấp gần 59 lần. Cùng với đó, Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, năm 2024 đạt 7,09% - thuộc nhóm cao hàng đầu khu vực.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ cùng với nông nghiệp công nghệ cao đã tạo hàng triệu việc làm, góp phần cải thiện thu nhập và chất lượng sống của người dân. Đây chính là nền tảng kinh tế để nuôi dưỡng hạnh phúc.

Mọi người dân được chăm lo toàn diện
Cùng với việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập là tuổi thọ của người dân tăng cao. Tuổi thọ trung bình của người dân nước ta có bước nhảy vọt, từ khoảng 38 vào năm 1945, lên 60 ở giai đoạn 1975 - 1980 và đạt mức 74,5 tuổi vào thời điểm hiện nay.
Hiện nước ta có gần 432.000 nhân lực y tế, đạt mức 14 bác sĩ trên 10.000 dân; có 1.645 bệnh viện, trong đó 34 bệnh viện tuyến trung ương, gần 500 bệnh viện thuộc tỉnh. Từ năm 2008 (thời điểm Nghị quyết số 18/2008/QH12 của Quốc hội được ban hành) đến nay, chi từ ngân sách nhà nước cho y tế đã đạt khoảng 7 - 8% tổng chi ngân sách. Tổng chi toàn xã hội (không chỉ từ ngân sách nhà nước) cho chăm sóc sức khỏe được duy trì ở mức 6% GDP từ năm 2015 đến nay. Việt Nam đang hướng tới việc miễn viện phí toàn dân vào giai đoạn từ 2030 - 2035 - 2045.

Theo Bộ Y tế, từ năm 2026 đến 2030, dự kiến 90% người dân được tiếp cận đầy đủ dịch vụ dự phòng bệnh tật, nâng cao sức khỏe; 100% người dân được khám sức khỏe định kỳ ít nhất mỗi năm một lần. Đến năm 2035 hoặc 2045, hệ thống y tế của Việt Nam sẽ đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu về chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân, thực hiện chủ trương người dân không phải chi trả thêm chi phí khi khám, chữa bệnh có bảo hiểm y tế.
Giáo dục luôn được coi là chìa khóa để nâng cao chất lượng cuộc sống. Việt Nam đã đạt tỷ lệ biết chữ 97%, phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi từ năm 2017 và tỷ lệ nhập học tiểu học gần như 100%. Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước hiện chiếm 4,9% GDP. Chính phủ chú trọng cải cách chương trình, nâng cao chất lượng đội ngũ, mở rộng cơ sở hạ tầng. Các kỹ năng mềm, ngoại ngữ, công nghệ thông tin được đưa vào giảng dạy để thế hệ trẻ tự tin hơn trong hội nhập.

Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng ấm no, đủ đầy.
Từ chủ trương của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, mới đây Quốc hội đã quyết định từ năm học 2025 - 2026 miễn học phí cho tất cả học sinh (hơn 22 triệu em) từ mầm non (từ 3 tháng tuổi) đến hết trung học phổ thông công lập trên toàn quốc. Còn học sinh ngoài công lập (hơn 1 triệu em) được bù từ ngân sách nhà nước khoản tiền bằng học phí công lập. Đây là chính sách thể hiện quyết tâm tạo cơ hội học tập công bằng cho mọi trẻ em, không phân biệt giàu nghèo, vùng miền.
Một quốc gia hạnh phúc không chỉ được đo bằng thu nhập hay tuổi thọ, mà còn ở đời sống tinh thần phong phú. Việt Nam đã và đang phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời khuyến khích sáng tạo, đổi mới trong các hoạt động nghệ thuật, văn hóa, du lịch. Năm 2024, các lễ hội, sự kiện văn hóa - du lịch đã thu hút hàng triệu lượt khách, vừa nâng cao đời sống tinh thần, vừa tạo thêm việc làm. Bên cạnh đó, các công viên, khu vui chơi, trung tâm thể thao ở nhiều địa phương đã trở thành không gian gắn kết cộng đồng, giúp người dân rèn luyện sức khỏe, giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng.
Nỗ lực đặt con người làm trung tâm của phát triển đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Báo cáo Phát triển Con người 2025 của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) cho biết, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2023 đạt 0,766, xếp hạng 93/193 quốc gia, thuộc nhóm phát triển con người cao. So với năm 1990, chỉ số này đã tăng tới 53,5%. Trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới 2025, Việt Nam xếp hạng 46, cao nhất từ trước tới nay. Kết quả này phản ánh những cải thiện rõ rệt trong các lĩnh vực kinh tế, y tế, giáo dục và môi trường, khẳng định hiệu quả của chiến lược phát triển lấy con người làm gốc.
Xây dựng quốc gia hạnh phúc không phải là khẩu hiệu mà là chiến lược lâu dài, xuyên suốt, kiên định. Hạnh phúc không chỉ đủ ăn, đủ mặc mà là sự phát triển toàn diện của con người cả về vật chất lẫn tinh thần trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Khát vọng ấy đang được hiện thực hóa từng ngày trên mảnh đất hình chữ S - nơi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu tối thượng của mọi chính sách.
Nguyễn Síu