Lội suối, băng rừng vào tâm lũ quét Sa Ná
Huyện Quan Sơn tháng 8/2019, những cơn mưa lớn dài ngày khiến bản Sa Ná, xã Na Mèo tan hoang chưa từng có trong lịch sử. Một trận lũ quét kinh hoàng đổ xuống lúc rạng sáng cuốn phăng ruộng vườn, trâu bò, lúa gạo… khiến 10 người chết và mất tích, hơn 50 căn nhà bị cuốn trôi, hư hỏng.
Nhận được tin lũ dữ, sau khi hội ý nhanh, cả đoàn tranh thủ chuẩn bị đồ dùng cần thiết rồi lên đường. Phải mất hơn 4 giờ đồng hồ vượt gần 200km, chúng tôi mới đến trung tâm xã Na Mèo.

Đường vào Sa Ná ngày ấy là hành trình gian khổ, trước đây người dân bản địa thường chọn con đường vượt sông Luồng từ bản Bo Hiềng phía bên ngoài xã Na Mèo để đi vào, con đường này gần, dễ đi. Ngoài ra, cũng có thể đến Sa Ná bằng cách đi vòng qua xã Sơn Thủy ở phía trên nhưng xa hơn.
Thế nhưng, con đường ngắn ấy cũng bị dòng nước lũ cuốn phăng, chia cắt. Để đến được với bà con bản Sa Ná sớm nhất, chúng tôi đành chọn cách vượt sông. Chiếc bè mảng được người dân, chính quyền địa phương kết tạm chở được vài ba người với sự hỗ trợ của những thanh niên kéo dây hai bên đưa đoàn vượt sông an toàn.
Vượt qua con sông Luồng nhưng để lên Sa Ná đoàn còn phải men theo bìa rừng chằng chịt gai leo, vách đá lởm chởm bên cạnh dòng suối Son mất gần 1 giờ nữa mới đến nơi.

Là người trực tiếp có mặt sau khi lũ dữ đi qua, nỗi ám ảnh theo tôi suốt hành trình dài là hình ảnh một bản nghèo bình yên giờ đây bị dòng lũ dữ san phẳng, ngổn ngang đất, cát, cây gỗ dồn ứ chất thành đống.
Những khúc gỗ lớn từ phía thượng nguồn đổ về chắn hết lối đi. Những ngôi nhà yên ấm ngày nào giờ chỉ còn trơ lại móng, xiêu vẹo trong đống đổ nát. Tiếng nước chảy ào ào của dòng suối Son vẫn không át được tiếng khóc ai oán cho thân phận người còn đang mất tích. Từng tốp thanh niên lật từng khúc gỗ dưới suối lên đóng quan tài “chờ đón” người chết; những tiếng khóc thương người xấu số văng vẳng khắp nơi…
Vì mưa kéo dài, mất điện diện rộng, mọi thông tin liên lạc từ bản ra bên ngoài dường như bị cô lập. Sau gần 1 ngày tác nghiệp trong bản, cả nhóm quyết định quay ngược trở lại trung tâm xã để có thể thông tin sớm nhất tới bạn đọc. Suốt gần một tuần sau đó, cùng các lực lượng cứu trợ, chính quyền địa phương lăn lộn, nhóm chúng tôi vẫn bám bản để đưa tin.
Khó khăn, vất vả là thế, nhưng bằng nhiệt huyết, trách nhiệm với nghề, chuyến đi tác nghiệp ấy đã để lại trong tôi và các đồng nghiệp những kỷ niệm, những tình cảm thấm đẫm tình người. Và chính những tình cảm ấy là nguồn động lực quan trọng để tôi thêm yêu nghề, nỗ lực mỗi ngày đến nhiều hơn các bản làng xa xôi, cách trở.

Đêm lạnh ở bản Mùa Xuân
Sau bao lần lỡ hẹn, tháng 11/2024, cùng với hai đồng nghiệp, tôi có dịp đến với điểm trường Mầm non Mùa Xuân, ở bản Mùa Xuân, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn.
Bản Mùa Xuân cùng Xía Nọi, xã Sơn Thủy và bản Ché Lầu, xã Na Mèo là 3 bản người Mông xa xôi nhất, khó khăn nhất của huyện Quan Sơn. Đường từ trung tâm xã Sơn Thủy vào bản Mùa Xuân dài gần 30km dù không quá khó đi như mấy năm trước nhưng vẫn gập ghềnh khiến ai lần đầu đặt chân tới đây phải chùn bước. Những khúc cua tay áo, những con dốc dựng đứng sương mù bao phủ, những con suối nhỏ róc rách hai bên đường khiến chuyến hành trình trở nên gian nan hơn.
Cô Phạm Thị Thóa, giáo viên Trường Mầm non Sơn Thủy ở trung tâm xã - người đưa đoàn vào bản cho biết: “Mùa này trên bản thường mưa bất chợt, nếu gặp mưa, xe máy đi còn khó, xe ô tô không thể về trung tâm được”.
Mặc dù chuẩn bị khá kỹ nhưng chiếc xe chở đoàn cũng không thể “bò” vào trung tâm bản được. Cơn mưa phùn trước đó khiến cho gần 4km đường đất đầu bản trở nên lầy lội, trơn trượt, nếu không chắc tay lái có thể gặp nguy hiểm bất cứ lúc nào. Để đảm bảo an toàn, đành gửi xe bên lán cạnh đường, mấy anh em cuốc bộ vào bản.
Điểm trường mầm non Mùa Xuân nằm lọt thỏm giữa bốn bề bao quanh núi, nơi những đứa trẻ dân tộc Mông vẫn từng ngày nắm tay nhau bước qua bao nhọc nhằn để đến lớp với mong muốn “theo đuổi con chữ”, xua đi cái nghèo ở bản vùng cao còn muôn vàn khó khăn này.
Khi chúng tôi vừa tới điểm trường, trời bất ngờ đổ mưa nặng hạt. Cơn mưa dai dẳng suốt buổi chiều khiến con đường trở về rất nguy hiểm. Không còn lựa chọn nào khác, chúng tôi đành xin nghỉ lại tại điểm trường, ngủ trên những tấm chiếu mỏng manh mà các em học sinh hàng ngày vẫn ngủ.

Điểm trường không đủ giường chiếu, chăn cho học sinh. Mỗi người chúng tôi đắp chiếc chăn nhỏ, mỏng… Đêm vùng cao lạnh buốt, cả đoàn nằm co ro trên sàn lạnh ngắt, đôi lúc tôi giật mình tỉnh giấc vì lạnh và cảm nhận thế nào là cái lạnh “cắt da thịt” của miền biên viễn và thấm thía sự thiếu thốn mà thầy cô cùng học trò nơi đây vẫn phải đối mặt từng ngày.
Sáng hôm sau, khi những tia nắng lan tỏa trên đỉnh núi, điểm trường Mùa Xuân hiện ra trước mắt giản dị và nhỏ bé. Trên sân trường, những em học sinh người Mông trong bộ áo đủ màu sắc ríu rít chạy nhảy, đôi má đỏ hây vì lạnh. Thấy khách lạ, mấy em líu ríu chào: "Cháu chào cô, cháu chào chú!", rồi bẽn lẽn nấp sau chân cô giáo.
Tôi theo chân các thầy cô vào lớp học - căn phòng nhỏ xinh xắn, bàn ghế vừa tầm trẻ mẫu giáo. Trên tường là những bức tranh đủ sắc màu với những bông hoa, mái nhà, mặt trời cười tươi… khiến không gian giản đơn thành nơi đầy ắp yêu thương và mơ mộng. Trong ánh mắt thơ ngây của những đứa trẻ nơi vùng cao này, lớp học chính là cả một thế giới rộng lớn, rực rỡ sắc màu.
Cầm máy ảnh ghi lại khoảnh khắc ấy, tôi bất giác thấy cay nơi khóe mắt. Tác nghiệp ở điểm trường Mùa Xuân không chỉ ghi lại hình ảnh, mà còn là ghi nhớ trong lòng sự hy sinh thầm lặng của những người thầy cô “cắm bản, gieo chữ” và cả những nỗ lực từng ngày của những đứa trẻ vươn lên trong cuộc sống.
Rời điểm trường Mùa Xuân, tôi ngoái nhìn lại giữa núi rừng trập trùng, ngôi trường nhỏ bé ấy như một nốt nhạc trong bản trường ca bất tận của núi rừng - nơi gieo mầm cho bao giấc mơ bé nhỏ vươn lên thoát nghèo. Và tôi biết, mình sẽ còn quay lại…
Quách Tuấn







