Kỳ I: Tiếng búa vẫn vang giữa phố cổ rộn ràng
Phố Lò Rèn xưa kia là “trái tim” của nghề rèn Hà Nội. Chỉ với hơn 200m chiều dài, con phố từng hội tụ hàng chục lò thủ công rèn, đục, cuốc, xẻng, dao, kéo… để phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Người đi qua phải nói chuyện thật to mới át được tiếng búa, tiếng đe. Còn bây giờ, chỉ còn duy nhất lò rèn đỏ lửa ở số 26, do ông Nguyễn Phương Hùng (tuổi ngoài 60) gìn giữ.
Một đời giữ lửa
Giữa lúc cả phố đã hóa shop thời trang, quán cà phê, cửa hàng phụ kiện công nghệ, hình ảnh người đàn ông áo quần lấm lem, tay đen nhẻm vì muội than, cần mẫn thổi bễ, quai búa rèn từng chiếc mũi đục, móc treo quạt… trở thành lạ lẫm. Những người cùng thời ông, không ai còn làm nghề nữa. Người chuyển sang cơ khí, người mở cửa hàng inox, người bỏ nghề để bán vật liệu xây dựng. “Giờ mà sống bằng nghề rèn thủ công thì người ta bảo mọn, bảo cực. Nhưng tôi thấy là mình sống được, sống khỏe và sống tử tế từ cái nghề này”, ông Hùng tự hào nói. Khách du lịch nước ngoài thường dừng chân trước cửa hàng nhỏ của ông, ngắm nghía, chụp ảnh, lặng im hồi lâu như thể họ vừa bắt gặp một “khoảnh khắc Đông Dương” còn sót lại.
Hồ hởi, xởi lởi, ông Hùng bỏ lại công việc đang dang dở để chia sẻ về việc “giữ lửa”, giữ nghề. Đôi tay lấm lem, mặt mũi dính dầu mỡ không che được niềm vui và sự hạnh phúc khi ông nói về nghề.
10 tuổi, cậu bé Nguyễn Phương Hùng đã quen với việc phụ cha nhặt than, quạt bễ, nhóm lửa. Nhưng nghề rèn - cái nghề lúc nào cũng làm việc bên cái nóng hầm hập hàng nghìn độ của lò lửa, của bụi sắt găm vào da thịt, cái mùi khét lẹt của dầu tôi… đã làm cậu nản lòng. Và cậu đã thoát ly. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, chàng trai trẻ chọn học nghề cơ khí rồi về làm việc tại xưởng sửa chữa ôtô. Tương lai tưởng chừng sẽ gắn với những máy móc hiện đại, xa rời cái bễ lò ám khói. Nhưng một ngày, người cha gọi Hùng về, nói gọn: "Nhà mình chỉ có con mới có thể nối nghiệp tổ tông".
Khi đó, ông Hùng không dám cãi lời. Cũng bởi trong lòng ông, ngọn lửa đỏ lò rèn là hình ảnh thiêng liêng, đã nuôi nấng cả gia đình, giúp 7 anh chị em ông ăn học nên người. Ngọn lửa trong lò không chỉ nung sắt thép, nó đã nung nên ý chí, hun đúc nên phẩm giá và tạo dựng nên cuộc sống cho cả một gia đình. Tình yêu, sự kính trọng và trách nhiệm trỗi dậy mạnh mẽ. Ông Hùng gạt bỏ con đường riêng, thuyết phục vợ con để chính thức tiếp quản "cơ ngơi" ông cha để lại, trở thành nghệ nhân đời thứ ba, gánh trên vai sứ mệnh giữ lửa cho lò rèn của tổ tông.

Mỗi nhát búa là một câu chuyện
Gần 30 năm gắn bó với góc phố nhỏ số 26 Lò Rèn, ông Hùng vẫn bền bỉ ngày ngày bên chiếc lò thủ công chưa đầy 3m², nơi ám đầy khói than, bụi sắt và dầu mỡ. Nhưng từ “lãnh địa” khiêm tốn ấy, ông đã hun đúc nên không chỉ những lưỡi đục, mũi khoan mà còn cả một thế giới quan sâu sắc về lao động chân chính.
Ngắm ông làm việc có thể cảm nhận một bản giao hưởng của lửa và thép. Bàn tay trần thoăn thoắt nhóm lửa, thổi bễ. Khi thanh sắt đã đỏ rực, ông nhanh tay đặt lên đe, bắt đầu những nhát búa chính xác đến từng ly. Mỗi nhát búa không đơn thuần là sức mạnh mà là kết quả của sự khéo léo, cảm nhận và tập trung cao độ. “Cầm búa là một nghệ thuật”, ông chia sẻ. Chiếc cán búa gỗ lim bóng loáng vì thấm mồ hôi bao năm như minh chứng cho cả một đời nghề.
Với ông, nghề rèn không chỉ là kỹ thuật mà còn là sự tôn trọng vật liệu và sản phẩm. Có hôm, ông quyết định không nổi lửa chỉ vì thời tiết không phù hợp - sự cẩn trọng hiếm có trong thời đại chuộng tốc độ. “Rèn không tinh thì phí sắt, không tỉ mỉ thì mũi đục gãy ngay”, ông nói. Từng sản phẩm, từ lưỡi cuốc, mũi khoan, đến xà beng đều được đặt riêng vì chất lượng vượt trội và giá cả hợp lý. Anh Dũng, thợ khoan đục bê tông, là khách quen của ông Hùng đã 6 năm nay chia sẻ: “Tháng nào tụi em cũng qua chú sửa dụng cụ. Mũi khoan chú Hùng làm lại dùng bền và sắc hơn hẳn".

Giữa cái nóng hầm hập của ngày hè, ông Hùng vẫn bền bỉ nện búa, hoa lửa tung tóe như kể lại câu chuyện nghề. Ông hay đùa: “Cầm búa là cầm cả triết lý sống, phải biết chắc tay, biết dừng, biết buông, như sống với người vậy!”. Không cần lời lẽ hoa mỹ, triết lý đời ông cứ giản dị mà sâu sắc: Làm vì tiền thì chóng chán, làm vì giá trị thì khách sẽ quay lại. Và ông, tay cầm chiếc đục mới mài, mắt ánh lên niềm vui, bởi ông biết có rất nhiều người thợ vẫn tin và tìm đến sản phẩm mà ông làm ra bằng cả tâm huyết một đời.
Không chỉ có khách hàng, xưởng rèn của ông còn là điểm hẹn của những người bạn tâm giao. Như chú Thái (sống ở phố Trần Nhật Duật, Hà Nội), từ một khách hàng đã trở thành bạn trà, thi thoảng lại ghé qua ngồi bên bễ lò, cùng ông Hùng hàn huyên chuyện xưa nay. Họ đến để tìm một chút chân thật, một chút hoài niệm, để được sưởi ấm bởi ngọn lửa nghề và sự an nhiên toát ra từ người thợ rèn.
Giữa phố thị, sống chậm mà chắc
Sáng 7h mở quán, nhưng thường đến 9h ông Hùng mới bắt đầu công việc sau khi đã thong dong ăn sáng, uống một ly cà phê, ngắm nhìn phố phường. Có những tối, ông lại lên Hồ Tây, tự thưởng cho mình những khoảnh khắc tĩnh lặng sau một ngày lao động mệt nhoài. Ông không uống rượu bia, không hút thuốc, cái nghề khắc nghiệt dường như lại rèn cho ông một lối sống lành mạnh và một tâm hồn tự tại. Lao động chân chính không chỉ mang lại thu nhập hàng chục triệu đồng mỗi tháng, nó còn mang lại cho ông sự tự do và một niềm hạnh phúc tự thân, điều mà tiền bạc đơn thuần khó có thể mua được.
Có khách, có bạn, có người tìm đến học nghề nhưng chưa ai theo được lâu. “Người ta thấy lấm lem là bỏ, thấy nóng là bỏ, thấy không giàu nhanh là bỏ. Nhưng nếu không đổ mồ hôi thì làm sao có thành quả thật sự?”.
Có lần, một sinh viên đến xin ông phỏng vấn làm đồ án. Sau buổi hôm ấy, em quay lại và bảo: “Cháu thấy nghề chú nghèo mà giàu, khổ mà vui. Nhờ chú mà cháu hiểu ra: Không nghề nào là thấp hèn nếu mình làm tử tế”.
Và đó cũng là điều ông Hùng mong muốn nhất: Giữ được cái hồn của lao động thực sự. “Tôi tin là đến một lúc nào đó, xã hội sẽ cần quay lại với lao động chân tay. Không phải để làm cho đủ ăn mà để nhắc con người ta rằng: Không có cái gì đến dễ dàng. Cái gì có giá trị thì đều phải rèn ra - như chính nghề này”.

Anh Dũng, thợ khoan đục bê tông, là khách quen của ông Hùng đã 6 năm nay.
Đời thợ - đời phố
Những câu chuyện bên lò rèn đưa tôi về ký ức rực rỡ của con phố. Ông kể: “Ngày xưa, nhà nào ở đây cũng có lò, có nhà sở hữu đến 3 cái. Lúc hưng thịnh nhất, phố Lò Rèn suốt ngày đỏ lửa, người ta gọi nhau phải to hơn để át tiếng búa đe”.
Ông nội của ông Hùng là người đầu tiên mang nghề từ làng Hòe Thị (Từ Liêm) lên phố Lò Rèn, từng rèn bu-lông, ốc vít cho các công trình lớn, cho cả ngành xiếc và ngành dệt Vạn Phúc. Bố ông - nghệ nhân Nguyễn Hữu Trịnh là người có tiếng về quốc huy, đạo cụ sân khấu.
“Giờ chỉ còn mình tôi. Nhiều lúc cũng buồn. Nhưng cái tên phố Lò Rèn vẫn còn thì tôi còn rèn. Còn tiếng búa là còn hồn phố”, ông nói rồi lại quay sang nhóm lò.

Nhiều người hỏi ông Hùng tại sao không nghỉ ngơi, không chuyển sang làm cái gì nhẹ nhàng hơn. Ông chỉ cười: “Còn tay còn búa. Còn khách còn nghề. Mà còn nghề là còn đời sống. Phố cổ cần những người như tôi. Không phải để sống cho oai mà để sống như một phần lịch sử, một phần thực thể sống động - giữa Hà Nội bây giờ đầy hào nhoáng”.
Niềm vui và sự tự tại của ông Hùng đôi lúc vẫn chùng xuống bởi một nỗi niềm sâu kín - người nối nghiệp. Ông có hai người con, cả hai đều học đại học, có công việc ổn định là kỹ sư xây dựng và kế toán. Nhưng không ai theo cha.
Nhìn người đàn ông 64 tuổi vẫn miệt mài quai búa, tấm lưng đẫm mồ hôi, tôi chợt nhận ra ngọn lửa trong bễ lò kia không chỉ là để nung sắt. Đó là ngọn lửa của đam mê, của trách nhiệm với lời trăng trối của người cha. Đó là ngọn lửa của ký ức, giữ lại một phần hồn cốt của Hà Nội 36 phố phường. Và đó cũng là ngọn lửa của phẩm giá lao động, minh chứng cho một triết lý sống giản dị mà cao quý: Hạnh phúc đến từ những giá trị do chính đôi tay mình tạo ra.
Gia Hưng
Kỳ II: Giữ hồn tre giữa lòng phố cổ