Rào cản bứt phá từ thiếu nhân lực tay nghề cao
Ông Nguyễn Hoàng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn N&G nhìn nhận, ngành CNHT Việt Nam đang đứng trước cơ hội phát triển chưa từng có. Không chỉ phát triển về số lượng, nhiều DN còn nâng tầm công nghệ, khẳng định năng lực hội nhập. Tuy nhiên, thiếu nhân lực tay nghề cao vẫn là rào cản để ngành CNHT bứt phá.
Theo Bộ Công Thương, Việt Nam hiện có khoảng 2.000 DN hoạt động trong lĩnh vực CNHT nhưng chưa tới 300 DN tham gia được vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia. Một trong những nguyên nhân quan trọng là thiếu lao động kỹ thuật cao.
Trong lĩnh vực cơ khí chính xác, linh kiện ô tô, điện tử, nhu cầu kỹ sư, kỹ thuật viên có tay nghề tăng đều hàng năm từ 8 - 10%. Tuy nhiên, số lượng nhân lực đáp ứng được yêu cầu thực tế chỉ đạt khoảng 40 - 50%. Điều này buộc nhiều DN phải tự đào tạo lại hoặc thuê chuyên gia nước ngoài với chi phí cao.
“Số lượng lao động có tay nghề cao trong các ngành CNHT hiện rất hạn chế so với nhu cầu của ngành. Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng với khoảng 54% ở độ tuổi lao động. Tuy nhiên, nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, tay nghề cao còn hạn chế cả về số lượng và trình độ, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh khi tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, cũng như nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị”, ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) chia sẻ.
Đồng thuận, bà Tô Thị Hồng Lĩnh, Trưởng phòng Kinh doanh của Công ty cổ phần Đầu tư thương mại công nghiệp Hà Nội (thương hiệu OSAKA SEIMITSU) cho hay, các sinh viên tốt nghiệp ngành cơ khí khi vào làm thường chưa quen với máy móc, công nghệ cao. DN phải mất ít nhất 6 tháng để đào tạo lại, vì thế làm chậm tiến độ sản xuất và tốn kém chi phí.
Ông Lê Quý Thành, Giám đốc Nhà máy TOMECO An Khang cho biết, còn tình trạng chênh lệch giữa khoa học công nghệ thực tế DN đang sử dụng với cập nhật chương trình đào tạo tại nhà trường. “Các nhân sự làm việc trong ngành này ngoài kiến thức chuyên môn thì rất cần am hiểu về hệ thống, quy trình, tiêu chuẩn cao như ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001… hay cách thức vận hành máy móc, thiết bị hiện đại. Những nguồn nhân sự này hiện rất khó tìm được trong các trường đại học hiện nay”, ông Thành thừa nhận.

Để cung - cầu nhân lực gặp nhau
PGS, TS Nguyễn Minh Đức, chuyên gia về đào tạo nhân lực công nghiệp nhận định, các trường vẫn đi chậm một nhịp so với DN, tạo ra khoảng cách lớn, khiến cung - cầu nhân lực không gặp nhau. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các tập đoàn lớn như: Samsung, Toyota, Canon, LG… đã tạo ra sức ép, yêu cầu nhà cung ứng phải đạt chuẩn quốc tế, không chỉ về sản phẩm mà cả về quy trình và nhân lực.
Tuy nhiên, nhiều DN Việt chưa thể đáp ứng vì thiếu đội ngũ kỹ sư giỏi ngoại ngữ, am hiểu công nghệ và có khả năng sáng tạo nên dù có tiềm năng nhưng vẫn đứng ngoài nhiều chuỗi cung ứng quan trọng.
Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) phân tích, Việt Nam hiện có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực CNHT, chiếm khoảng 40% tổng số DN toàn ngành. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa ở nhiều lĩnh vực còn khiêm tốn: Dệt may - da giày khoảng 45 - 50%, cơ khí chế tạo 15 - 20%, lắp ráp ô tô 5 - 20%. Trong khi đó, khoảng 6.000 DN CNHT trong nước mới chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng sản xuất. Riêng nhóm DN nội địa, tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt khoảng 15,7%.
Chia sẻ từ thực tiễn, ông Phạm Hải Phong, Chánh Văn phòng Hiệp hội CNHT Việt Nam (VASI) nêu ví dụ điển hình về một DN thành viên VASI. Ban đầu chỉ tham gia triển lãm tại Đức với tư cách quan sát viên, sau khi nhận thấy tiềm năng lớn, DN này đã tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, tham gia các chương trình tư vấn - đào tạo tại chỗ và từng bước đạt được năng lực cung ứng cho các tập đoàn lớn. Đến năm 2023, DN đã mở rộng thêm 2 nhà máy, tăng gấp 3 lần sản lượng. Đây là minh chứng rõ rằng để "chen chân" được vào chuỗi cung ứng toàn cầu, DN cần 9 - 10 năm đầu tư bền bỉ về công nghệ và đặc biệt là con người - đội ngũ có tay nghề chất lượng cao.
Vì thế, theo các chuyên gia, lời giải cho bài toán nhân lực CNHT chính là ở việc xây dựng cơ chế liên kết chặt chẽ giữa nhà trường - doanh nghiệp - nhà nước. DN cần tham gia ngay từ khâu xây dựng chương trình đào tạo, “đặt hàng” nhà trường về những kỹ năng, công nghệ mà họ cần. Nhà trường phải đổi mới chương trình, đầu tư thiết bị hiện đại và tăng thời lượng thực hành. Nhà nước giữ vai trò “nhạc trưởng”, ban hành chính sách khuyến khích, như miễn giảm thuế cho DN đầu tư vào đào tạo nhân lực hay hỗ trợ kinh phí cho các chương trình hợp tác đào tạo.
“Trong bối cảnh chuyển đổi xanh và số hóa sản xuất, yêu cầu đối với nhân lực CNHT ngày càng cao. Không chỉ thành thạo kỹ thuật, nhân lực ngành này còn phải am hiểu công nghệ số, tự động hóa, AI và đặc biệt là các tiêu chuẩn sản xuất xanh”, ông Nguyễn Hoàng Long, đại diện VASI TPHCM nhấn mạnh.
Để khắc phục tình trạng này, một số trường đại học đã bắt đầu triển khai chương trình đào tạo nhân lực gắn với DN FDI. Ví dụ, một số cơ sở tại Hà Nội và TPHCM đã hợp tác với Samsung, Toyota để xây dựng chương trình thực hành ngay trong nhà máy. Đây là tín hiệu tích cực và cần được nhân rộng.
Nguyễn Thanh