1. Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành bắt đầu hải trình đi tìm đường cứu nước bằng công việc phụ bếp. Người ra đi mang nỗi đau của người nô lệ mất nước. Người đã giành nửa cuộc đời vượt qua ba đại dương đến bốn châu lục, 28 nước, bôn ba ròng rã trên một đoạn đường ước tính 20 vạn km, từ những nơi trung tâm văn minh nhất của thế giới, tới những nơi bần cùng và đau khổ nhất của nhân loại thời ấy. Người đã đi đến kết luận rằng ở đâu chủ nghĩa thực dân cũng tàn ác, ở đâu các dân tộc thuộc địa cũng đau khổ. Thương nước, thương người, thương nhân loại, đã hun đúc thành tư tưởng và lòng ham muốn của Người: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước gửi kiến nghị đến Hội nghị hoà bình Véc-xây bản yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là một hình thức đấu tranh của Bác đòi quyền bình đẳng, quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân. Trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, một người Việt Nam chưa có tên tuổi, giữa sào huyệt kẻ thù dám đưa yêu sách về “quyền của các dân tộc” là một hành động yêu nước dũng cảm, tài trí, khôn ngoan. Đương nhiên là những kiến nghị đó không được thực hiện. Người ý thức được rằng phải lấy sức ta mà giải phóng cho ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về sự gần dân, học dân, kính trọng, phục vụ nhân dân. Nguồn: Internet
Năm 1941, Bác từ nước ngoài về nước để chỉ đạo cách mạng. Người viết thư Kính cáo đồng bào “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Bác thành lập Việt Minh với mục tiêu là “Cờ treo độc lập, xây nền bình quyền”. Trong lúc ốm thập tử nhất sinh, Người vẫn thể hiện quyết tâm sắt đá: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Cách mạng tháng Tám thành công, Bác long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thật sự đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Trong 30 năm đấu tranh giành độc lập dân tộc thống nhất đất nước, khẩu hiệu “không có gì quý hơn độc lập tự do”, đã đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại.
“Độc lập, mà không đem lại tự do cho dân thì độc lập cũng không có nghĩa gì”. Đây là đúc rút của Bác khi Người đi đến nhiều nước tuy có nền độc lập mà dân không được tự do. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam trải qua hàng thế kỷ dưới ách thực dân phong kiến, sống một cuộc sống không có được một tự do tối thiểu nào, bị nô dịch và nghèo đói đến cùng cực. Khát vọng tự do để hoạt động nâng dân tộc mình lên, nâng cuộc sống của mình lên đã trở thành mục đích thiêng liêng của độc lập dân tộc. Giải phóng dân tộc là để đem lại tự do cho nhân dân. Nhà nước của ta có sứ mệnh lịch sử tạo ra tự do cho dân sống và hoạt động, dân lập ra quyền lực để bảo đảm an ninh và tạo môi trường tự do cho hoạt động sáng tạo của từng cá nhân, mưu cầu một cuộc sống ngày càng đầy đủ, hạnh phúc hơn. Đó là khát khao cháy bỏng suốt cuộc đời của Người.
2. Trước lúc đi xa Bác còn để lại những lời tâm huyết ước nguyện thiêng liêng: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.
Sau khi giải phóng, đất nước thống nhất, chúng ta mới giành được quyền xây dựng một quốc gia độc lập dân tộc. Phải bắt tay vào xây dựng đất nước trong điều kiện rất khó khăn. Cả nước có 3 triệu người đói. Hàng năm Nhà nước vẫn phải nhập khẩu 2 triệu tấn lương thực, bình quân lương thực chỉ đạt 280kg/người/năm. Năm 1988 Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp, chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa. Năm 1998 sản lượng lương thực đạt 31,7 triệu tấn, đưa mức bình quân lương thực lên 400kg/người/năm, rồi 435kg/người năm. Năm 2000 nước ta đã có gạo xuất khẩu đứng hàng thứ hai thế giới, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 8% theo chuẩn cũ. Cuộc chiến về an ninh lương thực là cuộc đấu trí, đấu lực của toàn Đảng, toàn dân, từ người lãnh đạo cao nhất đến người dân trên mặt trận cam go này.
Ngày nay, “xoá đói giảm nghèo” không còn là vấn đề của mỗi quốc gia riêng biệt mà đã trở thành vấn đề chung, vấn đề mà xã hội bức xúc mang tính toàn cầu, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn nhân loại. Với tinh thần đó, năm 2000, Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc có sự tham gia của 150 vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ, đã quyết định lấy ngày 17/10 hàng năm - ngày mà 55 năm trước ( 17/10/1945) Chủ tich Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi chống giặc đói ở nước ta là “Ngày thế giới chống đói nghèo”.
Gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế phát triển, chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường, văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng ứng phó, không để bị bất ngờ trong mọi tình huống hay bất kỳ thách thức, mối đe dọa nào có thể xảy ra. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên.
Mặt khác, Đảng và Nhà nước, nhân dân ta cũng thấy rằng để thực hiện mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân lên mức cao vào dịp Đảng ta và Nhà nước ta tròn 100 năm cần phải quyết tâm tạo ra những đột phá mới, tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, chất lượng nguồn nhân lực và hạ tầng kỹ thuật. Cuộc cách mạng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả đã tập trung sắp xếp, thu gọn, giảm bớt các khâu trung gian các cơ quan Đảng, hệ thống chính trị, bỏ hệ thống chính quyền cấp quận, huyện, thực hiện hệ thống chính quyền địa phương 2 cấp; cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, cắt giảm những bộ phận không cần thiết, xây dựng hệ thống vận hành chínsh quyền địa phương 2 cấp, đưa sự nghiệp phục vụ đến gần dân, sát dân hơn. Cấu trúc, kiến tạo, mở rộng không gian phát triển, định dạng hướng biển của các địa phương, tạo ra hướng phát triển rộng mở và lâu dài ổn định hàng trăm năm.
3. Đảng ta đang tiến hành đại hội các cấp tiến tới Đại hội XIV, định hướng bước đường đi tới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Hành trình của dân tộc ta còn rất dài và còn nhiều thách thức phía trước. Chặng đường phát triển là không để một người nào bị bỏ lại sau, từ thành thị đến nông thôn, từ miền ngược đến miền xuôi, biên giới và hải đảo. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ giai đoạn khó khăn hay thuận lợi, tinh thần dân tộc phải là sức mạnh hạt nhân của thể chế và toàn bộ hệ thống chính trị, là yếu tố quyết định ý Đảng lòng dân, là chất keo làm nên tinh thần đoàn kết, nhất trí một lòng tạo ra những kỳ tích mới cho chặng đường phát triển phía trước của dân tộc ta.
Đây là thời gian rất quan trọng trên con đường hiện thực hóa khát vọng của các bậc tiền nhân cũng như 100 triệu đồng bào ta cả trong và ngoài nước về một Việt Nam độc lập, tự cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tương lai phụ thuộc vào mỗi chúng ta ngày hôm nay, mỗi cánh chim hợp lại thành đàn chim tung cánh bay lên mang khát vọng thịnh vượng mạnh mẽ của mỗi người dân Việt Nam tạo nên một làn sóng khởi nghiệp để hình thành thế hệ NGƯỜI VIỆT NAM đầy tự hào của ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM, đóng góp thực hiện mục tiêu vào thời điểm 100 năm Quốc khánh, trở thành nước phát triển có thu nhập cao, không món quà nào có ý nghĩa hơn món quà này mừng Tết Độc lập của dân tộc.
Trần Công Huyền