“Đói” nhân lực phối hợp được kinh doanh và công nghệ
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia nêu rõ, một trong những mục tiêu cụ thể đặt ra đến năm 2030 là Việt Nam lọt vào nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Theo lãnh đạo một số cơ sở giáo dục đại học, mục tiêu này hoàn toàn có cơ sở, khi Việt Nam đang có lợi thế cả về thị trường, nguồn nhân lực và hệ sinh thái khởi nghiệp.
PGS, TS Hà Minh Hoàng, Trưởng khoa Khoa học Dữ liệu và Trí tuệ nhân tạo, Trường Công nghệ (Đại học Kinh tế quốc dân) chia sẻ, nguồn nhân lực trẻ, đặc biệt là nhân lực trong các ngành công nghệ là lợi thế nổi bật của Việt Nam. Đây không chỉ là nguồn nhân lực dồi dào mà còn là nền tảng quan trọng để Việt Nam có thể phát triển các nhóm nghiên cứu và doanh nghiệp công nghệ có khả năng cạnh tranh quốc tế trong tương lai.
Tuy nhiên, ông Hoàng cho rằng, Việt Nam đang ở trong giai đoạn đặc biệt, khi chi phí lao động thấp từng là lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế. Nhưng trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo, lợi thế đó đang gặp thách thức. Do đó, để chuyển đổi từ “lao động giá rẻ” sang “lao động tri thức cao”, sự đầu tư vào giáo dục và đào tạo về AI là chìa khóa mang tính chiến lược.
Chính phủ đã ban hành những chủ trương, giải pháp kịp thời thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang phương thức sản xuất số. Nhiệm vụ phát triển kinh tế số và xã hội số được đặt ở mức ưu tiên cao trong chiến lược phát triển quốc gia. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực ban hành chương trình, chiến lược về chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số với nhiều mục tiêu cụ thể cần đạt được.

Trong tiến trình chuyển đổi của nền kinh tế số, sự phối hợp của 5G và AI thúc đẩy mạnh mẽ cơ sở hạ tầng đổi mới sáng tạo, thúc đẩy sản xuất thông minh, y tế, giáo dục, ngân hàng, tài chính và nhiều lĩnh vực khác. Điều này đồng nghĩa chúng ta cần lực lượng nhân sự giỏi về kiến thức tài chính kiêm công nghệ để đáp ứng nhu cầu công việc. TS Đồng Mạnh Cường, Trưởng Khoa Kinh doanh, Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam (BUV) cho biết, trong quá trình Việt Nam chuyển mình sang một nền kinh tế số và kinh tế dựa trên công nghệ, khoảng trống nhân lực lớn nhất xuất hiện ở chính khu vực giao thoa giữa kinh doanh và công nghệ.
“Điều chúng ta cần không chỉ là những người biết “dùng AI” mà là những người biết “ứng dụng AI trong mô hình kinh doanh”, biết đặt câu hỏi đúng và hiểu tác động của AI lên chuỗi giá trị của doanh nghiệp”, TS Đồng Mạnh Cường nhìn nhận và cho rằng. Việt Nam đang thiếu nghiêm trọng những nhà quản lý sản phẩm số và nhà lãnh đạo chuyển đổi số có khả năng dẫn dắt toàn bộ vòng đời của một sản phẩm từ ý tưởng đến phát triển, thử nghiệm, tối ưu và mở rộng.
Khi các nền tảng công nghệ mới như blockchain, 5G, IoT (mạng lưới các thiết bị được kết nối internet để truyền tải dữ liệu với nhau và với đám mây), AI và các hệ thống thanh toán số phát triển nhanh, khoảng thiếu hụt nhân lực giỏi cả lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực công nghệ càng rõ rệt. Đây là những người vừa hiểu công nghệ, vừa hiểu mô hình kinh doanh, vừa nắm được yêu cầu pháp lý và tiêu chuẩn an toàn. Đây cũng là nhóm nhân lực có thể vận hành mô hình tài chính dựa trên blockchain, tối ưu chuỗi cung ứng dựa trên dữ liệu thời gian thực từ 5G và IoT hay phát triển dịch vụ fintech (công nghệ tài chính) mới phù hợp với khung pháp lý.
Nếu không đầu tư mạnh cho đào tạo, sẽ đối mặt thiếu hụt nhân lực giỏi
Vì thế, các chuyên gia kinh tế cho rằng, để có nguồn nhân lực bền vững trong tương lai, ngay từ bây giờ các trường phải có các mô hình đào tạo xóa bỏ ranh giới giữa các khối ngành. Tại đây, công nghệ không được dạy như một môn học tách biệt mà được lồng ghép trực tiếp vào bối cảnh kinh doanh. Sinh viên được tiếp cận các tình huống thực tế, từ việc dùng AI để tối ưu hóa nhu cầu, đến việc phân tích tác động của 5G lên mô hình tài chính.
Chưa hết, nhân sự có kiến thức giỏi mảng kinh doanh và công nghệ sẽ ngày càng cần số lượng lớn khi thương mại điện tử (TMĐT) ngày càng bùng nổ. Các chuyên gia cảnh báo, nếu không đầu tư mạnh cho đào tạo, TMĐT Việt Nam có thể đối mặt tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực quan trọng này và tác động đến đà tăng trưởng của thị trường này trong tương lai.

Viện dẫn số liệu năm 2024, quy mô thị trường TMĐT ước đạt 32 tỷ USD, riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa trực tuyến đạt 22,5 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2023; tỷ trọng TMĐT hiện chiếm 12% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, ThS Nguyễn Bình Minh, Trưởng ban Phát triển nguồn nhân lực, Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM) dự báo, nhu cầu tuyển dụng lĩnh vực TMĐT dự báo tăng từ 30 - 50% do giá trị biên giảm dần và doanh nghiệp cần nhiều nhân sự để mở rộng quy mô.
“Cả nước hiện có hơn 500 trường đại học và cao đẳng nhưng chỉ 36 trường đào tạo chuyên ngành TMĐT và hơn 50 trường đưa TMĐT vào một số học phần. Tuy vậy, nhân lực được đào tạo chính quy chỉ chiếm khoảng 30%, còn lại 70% chủ yếu tự học hoặc được đào tạo ngắn hạn tại doanh nghiệp, địa phương hoặc chuyển ngành từ các lĩnh vực như marketing, công nghệ thông tin, kinh doanh… Trong khi đó, tốc độ phát triển nhanh của TMĐT cùng quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đang mở ra nhiều cơ hội việc làm mới, đặc biệt ở các ngành thương mại - dịch vụ, logistics, marketing số và vận hành chuỗi cung ứng”, theo ông Minh.
Phân tích về quy mô thị trường, ông Lê Anh Quốc, chuyên gia của Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam không quên lưu ý sự phát triển bùng nổ của thị trường đi kèm với những rủi ro không nhỏ, cảnh báo về mặt trái của công nghệ khi tội phạm tài chính liên tục lợi dụng các kẽ hở. Thống kê giai đoạn 2019 - 2024 tại Việt Nam cho thấy, hơn 20.000 vụ lừa đảo công nghệ cao đã được ghi nhận, gây thiệt hại ước tính lên đến 12.000 tỷ đồng. Vì thế, “sinh viên khối ngành kinh tế - tài chính cần sớm tiếp cận các công nghệ quản trị rủi ro và dữ liệu này để trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng một hệ sinh thái tài chính số an toàn và bền vững”, ông Quốc nhấn mạnh.
Hoàng Long







