Định giá carbon giúp tạo ra nguồn thu hơn 100 tỷ USD
Chia sẻ tại Tọa đàm chính sách “Định hướng thị trường carbon toàn cầu và Việt Nam: Những nhận định sau COP30 và hướng đi tiếp theo”, ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ NN&MT) cho biết: "Những năm qua, xu thế chung cho thấy các công cụ định giá carbon như thị trường carbon, thuế carbon đang trở thành công cụ chính sách ngày càng phổ biến và phát triển mạnh mẽ, nhằm giúp các quốc gia giảm phát thải khí nhà kính, phát triển xanh".
Dẫn số liệu mới nhất từ báo cáo thực trạng và xu hướng định giá carbon năm 2025 của Ngân hàng Thế giới, ông Quang nhấn mạnh, các công cụ định giá carbon trong thời gian qua đã góp phần kiểm soát hơn 20% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu và tạo ra nguồn thu hơn 100 tỷ USD, qua đó góp nguồn lực lớn cho quá trình chuyển đổi xanh tại nhiều quốc gia.
Về phía Việt Nam, trong thời gian qua, để giảm phát thải khí nhà kính và xây dựng thị trường carbon, Chính phủ cũng đã khẩn trương xây dựng, ban hành khung pháp lý quan trọng, trong đó đặt ra lộ trình cụ thể để phát triển thị trường carbon. “Theo đó, từ nay đến năm 2028, Việt Nam sẽ vận hành thí điểm thị trường carbon; từ năm 2029 sẽ vận hành chính thức và kết nối với thị trường xanh quốc tế”, ông Quang thông tin.
Ông Quang cũng cho biết để tiếp tục hoàn thiện các chính sách vận hành thị trường carbon hiệu quả theo lộ trình đã đề ra, Chính phủ đang giao Bộ NN&MT chủ trì, xây dựng 2 nghị định quan trọng. Đó là Nghị định về trao đổi quốc tế kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Dự kiến Bộ sẽ trình Chính phủ trong tháng 12.
Về định hướng phát triển thị trường carbon, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết, từ kết quả của Hội nghị lần thứ 30 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP30) và quan điểm xuyên suốt của Việt Nam, thời gian tới, thị trường xanh này sẽ được phát triển theo hướng không chỉ ưu tiên khối lượng giao dịch mà xác định là công cụ quan trọng để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phát thải thấp. Do đó, Việt Nam không chạy theo số lượng tín chỉ giá rẻ mà tập trung vào chất lượng để đảm bảo uy tín, lợi ích quốc gia.
Theo TS Nguyễn Đình Tiến (Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội), phát triển thị trường carbon không chỉ là yêu cầu môi trường cấp bách mà còn là cơ hội phát triển kinh tế vĩ mô.

Thị trường tín chỉ carbon tạo ra nguồn thu nhập mới cho các dự án và hoạt động giảm phát thải
Đảm bảo lợi ích đến được với các cộng đồng nghèo và dân tộc thiểu số
GS, TS Phạm Thu Thủy (Đại học Flinders) cho rằng, nhiều nước đã tiên phong phát triển thị trường cacbon. Vì thế có nhiều bài học kinh nghiệm quý giá, có thể đóng vai trò là cơ sở tham chiếu để Việt Nam tham khảo, điều chỉnh áp dụng và nhân rộng việc phát triển thị trường carbon. Tuy vậy, để đạt tiến bộ thực sự, theo bà Thủy, Việt Nam cần biến bài học kinh nghiệm thành động lực chính sách và hành động cụ thể. Trong đó, việc phối hợp và hợp tác đóng vai trò rất quan trọng trong tất cả lĩnh vực (ví dụ thủy sản, quy hoạch, nông nghiệp, lâm nghiệp, tài chính, năng lượng, bảo tồn, an ninh lương thực, văn hóa, du lịch); ngoài ra, dựa trên khoa học - tích hợp công nghệ AI và khoa học dựa vào cộng đồng để hỗ trợ quá trình ra quyết định. “Các cơ chế khuyến khích tài chính và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự tham gia, cam kết lâu dài và tác động thực tế”, bà Thủy chia sẻ thêm.
Bà Lê Kim Dung, Trưởng Văn phòng đại diện tổ chức CARE tại Việt Nam cũng đề xuất, trong quá trình xây dựng một thị trường carbon, cần đảm bảo rằng các nhóm yếu thế (đặc biệt là phụ nữ và người dân thuộc các cộng đồng dân tộc thiểu số) được đưa vào các cơ chế vận hành thị trường carbon. Đây là điều thiết yếu để đạt được phương pháp tiếp cận “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong hành động khí hậu.
Đại sứ Canada tại Việt Nam Jim Nickel nhấn mạnh: “Canada cam kết sẽ hỗ trợ Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó thị trường carbon là một công cụ kinh tế then chốt để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 - như Việt Nam đã cam kết”.
Các chuyên gia cũng khẳng định, tương lai của thị trường carbon Việt Nam phụ thuộc vào sự hợp tác, công nghệ và sự tham gia chủ động của khu vực tư nhân - biến tham vọng toàn cầu thành lợi ích cấp cộng đồng. Nhu cầu cấp thiết hiện nay là cần hoàn thiện khung pháp lý toàn diện, tăng cường các hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định, trí tuệ nhân tạo và tăng cường đầu tư để đảm bảo tính minh bạch và đáng tin cậy, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.
Thị trường carbon được xác định vừa là công cụ khí hậu vừa là cơ hội kinh tế, đòi hỏi quan hệ đối tác công - tư mạnh mẽ và sự điều chỉnh phù hợp với các thông lệ quốc tế tốt nhất, được thích ứng với bối cảnh địa phương bao gồm carbon rừng và carbon xanh; đồng thời, đảm bảo rằng lợi ích đến được với các cộng đồng nghèo và dân tộc thiểu số.
Trong bối cảnh thiên tai, bão lũ diễn biến ngày càng khốc liệt, cùng với cam kết mạnh mẽ hướng đến Net Zero, việc phát triển thị trường carbon không chỉ là yêu cầu môi trường cấp bách mà còn là một công cụ kinh tế hiệu quả giúp giảm phát thải khí nhà kính dựa trên cơ chế thị trường.
VÂN KHÁNH







