Quay lại Dân trí
Nội vụ & Xã hội
  1. Đời sống - Kinh tế - Xã hội

Gia đình DINKs: Thách thức bài toán dân số Việt Nam

PV
PV

Tỷ lệ sinh thấp kỷ lục tại các đô thị lớn đang đặt ra nhiều thách thức đối với bài toán dân số cho Việt Nam.

Trong bối cảnh ấy, sự cởi mở của thế hệ Gen Z (sinh từ năm 1997 đến 2012) trước mô hình gia đình DINKs (Double Income, No Kids - hai nguồn thu nhập, không sinh con) gợi mở nhiều câu hỏi về tương lai cấu trúc gia đình và chính sách dân số.

Khi gia đình truyền thống “gặp” làn sóng hiện đại

Trong nhiều thập kỷ, gia đình Việt Nam gắn với hình ảnh nhiều thế hệ chung sống, coi việc sinh con là nền tảng của hạnh phúc. Nhưng vài năm trở lại đây, đặc biệt sau đại dịch Covid-19, một bộ phận người trẻ bắt đầu lựa chọn mô hình gia đình DINKs.

DINKs vốn đã phổ biến ở phương Tây từ những năm 1980, lan sang Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc và nay xuất hiện tại Việt Nam, chủ yếu ở Hà Nội, TPHCM. Theo Cục Thống kê (Bộ Tài chính), độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng từ 24,1 tuổi (năm 1999) lên 27,2 tuổi (năm 2024). Trong khi đó, mức sinh vào năm 2024 đã giảm một nửa so với năm 1989, xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 1,91 con/phụ nữ và có xu hướng sụt giảm nhanh hơn trong 2 năm gần đây. Đáng chú ý, tại các thành phố lớn như Hà Nội và TPHCM, tỉ suất sinh đang tiến tới vùng “sinh thấp nghiêm trọng” (dưới 1,3 con/phụ nữ) thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế Việt Nam đang duy trì (2 - 2,1 con/phụ nữ). Đây không chỉ là những con số khô khan mà phản ánh sự thay đổi sâu sắc trong tư duy về hôn nhân và gia đình.

So với các quốc gia phát triển, tỷ lệ DINKs ở Việt Nam còn thấp. Nhưng sự quan tâm, chấp nhận của thế hệ Gen Z đang tăng lên, nhất là trong bối cảnh chi phí sinh hoạt, nhà ở, giáo dục ngày càng đắt đỏ. Nhiều bạn trẻ cho rằng việc không sinh con giúp họ có nhiều thời gian hơn cho bản thân, cho sự nghiệp và các trải nghiệm cá nhân.

Thu An (30 tuổi, quê Phú Thọ) đang làm cho một doanh nghiệp xe công nghệ tại Hà Nội chia sẻ: “Em muốn tập trung phát triển bản thân, đi du lịch, học thêm ngoại ngữ, nếu sinh con thì sẽ khó làm được những điều đó. Vì vậy vợ chồng em kết hôn đã 4 năm nhưng em chưa sẵn sàng cho việc sinh em bé”.

Còn Lê Trần Mai Anh (30 tuổi, Hà Nội) cho biết, có nhiều lý do để em quyết định theo đuổi lối sống DINKs. Mỗi người đều có một tiêu chuẩn hạnh phúc riêng và có quyền lựa chọn cách sống của chính mình. Không thể kết luận việc lựa chọn không sinh con là việc làm sai trái và đáng lên án. Tuy nhiên, hiện nhiều người vẫn có cái nhìn khá tiêu cực về quan điểm này, điều đó rất đáng tiếc. “Em từng có thời gian giảng dạy và tiếp xúc với các em nhỏ, trẻ em sinh ra trong gia đình với mức thu nhập khá có lợi thế như thế nào. Thế nên bố mẹ không có điều kiện kinh tế dư dả để chăm sóc, nuôi dưỡng con tốt thì cũng không nên sinh con vì điều đó sẽ tạo áp lực cho gia đình và những áp lực đó có khi những đứa trẻ sẽ phải gánh chịu”, Mai Anh nói.

Một ví dụ khác, vợ chồng Lê Ngọc (TPHCM) hơn 10 năm nay chọn hôn nhân “chỉ có hai người”. Họ cùng xuất bản sách, thực hiện dự án ẩm thực, đi du lịch và chia sẻ trên mạng xã hội. “Hôn nhân là để ở bên nhau, cùng làm những điều yêu thích, không nhất thiết phải gắn với con cái”, Ngọc nói.

Gia đình DINKs: Thách thức bài toán dân số Việt Nam - 1
 Việc lựa chọn mô hình gia đình hai nguồn thu nhập, không sinh con đang là những thách thức với bài toán dân số.

Thách thức với bài toán dân số

Xu hướng DINKs cùng mức sinh thấp đang đặt ra thách thức lớn cho Việt Nam, bao gồm nguy cơ già hóa dân số nhanh, thiếu hụt lao động trẻ và áp lực ngày càng tăng lên hệ thống phúc lợi xã hội. GS Hoàng Bá Thịnh, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, lối sống không sinh con xuất hiện từ thập niên 1990, phổ biến tại các quốc gia phương Tây và hiện lan rộng ở châu Á như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản.

“Tại Việt Nam, biểu hiện rõ ràng hơn là xu hướng kết hôn muộn, sinh ít con hoặc trì hoãn việc sinh thay vì lựa chọn không sinh con,” ông Thịnh phân tích.

Theo ông Thịnh, lối sống này tập trung chủ yếu ở giới trẻ thành thị, đặc biệt là phụ nữ hiện đại có học vấn cao và khả năng tự lập. Thống kê quốc gia cho thấy, trình độ học vấn càng cao thì mức sinh càng giảm; nhóm phụ nữ thuộc tầng lớp giàu có ghi nhận tỷ lệ sinh con thấp nhất. “Nguyên nhân quan trọng nhất đằng sau là chi phí nuôi con quá lớn, mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến nghề nghiệp”.

Trong tâm lý học, "chiến lược sống" được chia thành hai hướng: nhanh và chậm. Người sống nhanh thường ưu tiên số lượng hơn chất lượng, như kết hôn sớm, sinh nhiều con - phản ứng phổ biến trong bối cảnh rủi ro cao, nguồn lực hạn chế, chẳng hạn sau chiến tranh hay dịch bệnh. Ngược lại, chiến lược sống chậm tập trung vào lợi ích dài hạn, ví như xu hướng kết hôn muộn, sinh ít con và đầu tư nhiều hơn vào nuôi dạy.

Ông Nguyễn Minh Thành, nghiên cứu sinh tâm lý học tại Đại học UCLouvain (Bỉ) và giảng viên Đại học Hoa Sen cho rằng: “Lối sống DINKs cũng phản ánh xu hướng này, bởi các đôi có rất nhiều áp lực phải lo, từ kinh tế, thời gian, tính cơ động và cả rủi ro về sức khỏe tâm thần. Việc nuôi dạy con cái vốn được xem là hành trình ý nghĩa cho cuộc hôn nhân và cuộc đời mỗi con người. Nhưng hành trình này cũng mang lại nhiều căng thẳng, lo âu và kiệt sức”.

Theo các chuyên gia tâm lý, DINKs không đơn thuần là biểu hiện của “ích kỷ”, mà phản ánh nhu cầu tìm kiếm sự an toàn và kiểm soát cuộc sống. Khi cá nhân chưa cảm thấy đủ an toàn về tài chính, môi trường, sức khỏe, họ sẽ ngần ngại sinh con.

Nhiều quốc gia đã thử các chính sách khuyến sinh như hỗ trợ tài chính, giảm thuế, tăng phúc lợi cho cha mẹ trẻ. Mới đây, trong dự thảo Luật Dân số, Bộ Y tế đề xuất chi 650 tỷ đồng hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc hiện vật khi phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi, điều này được đưa ra trong bối cảnh dân số Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề, trong đó có tình trạng giảm sinh ở mức kỷ lục. Theo Bộ Y tế, nếu mức sinh tiếp tục giảm, đến năm 2039 Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số sẽ bắt đầu tăng trưởng âm.

Trong bối cảnh đó, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ hôn nhân, sinh con bền vững, bao gồm chính sách ­nhà ở hợp lý, trường học chất lượng, dịch vụ y tế và cân bằng giữa công việc với gia đình. Chỉ khi áp lực kinh tế, xã hội giảm bớt, các cặp đôi trẻ mới sẵn sàng hơn với quyết định làm cha mẹ.

Minh Châu

Tin liên quan