Những quả trứng trắng ngà không chỉ là kết tinh của thiên nhiên mà còn là “vàng trắng” đối với các hộ dân gắn bó với nghề nuôi rắn, một trong những nghề độc đáo ở miền Bắc.
Cả làng vào mùa “vàng trắng”
Từ khoảng cuối tháng 5 đến hết tháng 7 dương lịch, các hộ nuôi rắn ở xã Phùng Nguyên bước vào vụ thu hoạch trứng rắn hổ mang phì, giai đoạn nhộn nhịp và quan trọng nhất năm. Mỗi hộ gia đình, mỗi trang trại như một "công xưởng" tất bật: Người đếm trứng, người phân loại, người đóng hàng giao thương lái.
Tại khu nuôi rắn rộng 100m² của gia đình, ông Bùi Tuấn Thành (khu 5, xã Phùng Nguyên) chia sẻ: “Năm nay tôi duy trì đàn rắn trên 1.000 con, trong đó có khoảng 600 rắn cái đang trong độ tuổi sinh sản. Để chủ động thu hoạch sớm, gia đình đã áp dụng phương pháp “đốt lò” từ cuối tháng 3, giúp rắn đẻ trước mùa từ 15 - 20 ngày”.
Phương pháp “đốt lò” mà ông Thành nhắc tới là kỹ thuật dùng hệ thống lò sưởi kiểu xông hơi, truyền nhiệt qua các ống thép dưới hoặc bên thành chuồng nuôi để duy trì nhiệt độ ổn định từ 28 - 30°C. Nhờ đó, rắn cái bước vào chu kỳ sinh sản sớm hơn và đẻ đều. Đây là giải pháp sáng tạo, mang lại hiệu quả rõ rệt trong sản lượng trứng và khả năng xoay vòng con giống.
Ông Thành cho biết, mỗi con rắn cái có thể đẻ trung bình từ 15 - 20 quả trứng, có con đẻ tới 35 - 40 quả. Trứng đạt tiêu chuẩn khi soi dưới đèn pin thấy rõ các tia máu li ti - dấu hiệu phôi đã phát triển tốt. Giá bán trứng năm nay dao động từ 37.000 - 50.000 đồng/quả, tùy thời điểm và loại, phần lớn được thương lái các tỉnh từ Lạng Sơn, Vĩnh Phúc (cũ), thu mua để cung cấp sang Trung Quốc, thị trường lớn có nhu cầu tiêu thụ trứng và thịt rắn rất cao.

Ông Bùi Tuấn Thành kiểm tra chất lượng trứng rắn trước khi giao cho khách hàng.
Nhộn nhịp không kém, gia đình bà Nguyễn Thị Hải (khu 7, xã Phùng Nguyên), với hơn 20 năm gắn bó với nghề, đang chăm sóc đàn rắn hơn 2.000 con. Với 900 con rắn cái, bà Hải kỳ vọng sẽ thu về khoảng 16.000 quả trứng trong vụ này. “Năm ngoái, tôi bán trứng với giá trung bình 55.000 đồng/quả, doanh thu gần 600 triệu đồng, lãi ròng khoảng 300 triệu đồng sau khi trừ chi phí. Nuôi rắn tuy vất vả, nguy hiểm nhưng nếu biết cách đầu tư chuồng trại và kỹ thuật tốt thì có thể sống khỏe với nghề”, bà Hải chia sẻ.
Từ “làng tử thần” đến làng nghề bạc tỷ
Phùng Nguyên từng được mệnh danh là “làng tử thần” bởi sự hiểm nguy trong việc nuôi loài rắn độc như hổ mang phì. Nhưng trải qua gần ba thập kỷ phát triển, với sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương và ngành chuyên môn, nghề nuôi rắn ở đây ngày càng an toàn và chuyên nghiệp.
“Ngày trước, ai cũng sợ rắn độc, nhất là khi chưa có đồ bảo hộ và chưa nắm rõ kỹ thuật. Nay khác rồi, người dân đều được tập huấn, chuồng trại cải tiến theo tiêu chuẩn an toàn sinh học, có hệ thống lưới, tường rào, camera, găng tay và dụng cụ gắp rắn. Tai nạn nghề nghiệp đã giảm rõ rệt so với trước”, ông Nguyễn Hữu Thuật, Trưởng làng nghề nuôi rắn xã Phùng Nguyên cho biết.
Làng nghề nuôi rắn ở Phùng Nguyên hình thành từ năm 1993, được công nhận là làng nghề truyền thống từ năm 2007. Thời kỳ hưng thịnh nhất, toàn xã có hơn 200 hộ nuôi rắn, tạo thành chuỗi giá trị từ con giống, trứng, rắn thịt đến sản phẩm sơ chế. Tuy nhiên, do biến động thị trường và yêu cầu kỹ thuật cao, đến nay chỉ còn khoảng 55 hộ theo nghề.
Dù quy mô thu hẹp nhưng theo ông Thuật, tổng doanh thu từ nghề nuôi rắn mỗi năm vẫn đạt trên 6 tỷ đồng. Những hộ duy trì tốt kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới và giữ được đầu ra ổn định vẫn có thu nhập cao, ổn định quanh năm.
Từ năm 2016, nhiều hộ nuôi rắn thịt đã chuyển hướng sang nuôi rắn sinh sản do nhu cầu trứng và rắn giống tăng mạnh. Trứng rắn không chỉ được bán sang Trung Quốc mà một phần còn được giữ lại để ấp, cung cấp rắn con cho các lò nuôi thương phẩm ở nhiều tỉnh phía Bắc và Bắc Trung bộ. Đây là hướng đi giúp người dân chủ động nguồn giống, giảm chi phí nhập từ nơi khác và giữ thế chủ động trên thị trường.
Lối đi hẹp nhưng vững chắc
Rắn hổ mang phì là loài đặc hữu, dễ thích nghi với khí hậu miền Bắc, ít xảy ra dịch bệnh, sinh sản tốt và cho hiệu quả kinh tế cao. Thức ăn cho rắn đa dạng từ cá, gà, vịt, đến cóc, lươn… và chỉ cần cho ăn 4 - 5 ngày/lần nên chi phí không quá lớn so với các vật nuôi khác.
Dù vậy, nghề nuôi rắn không dành cho số đông. Nó đòi hỏi người nuôi phải có hiểu biết, kiên nhẫn và tinh thần thép để đối mặt với nguy hiểm tiềm ẩn. Việc chăm sóc, theo dõi chu kỳ sinh sản, phòng bệnh và giữ an toàn cho bản thân luôn là ưu tiên hàng đầu. Vì thế, những người còn bám trụ với nghề đều là những người bản lĩnh, gắn bó lâu dài và xem nghề nuôi rắn như một phần của cuộc sống.
“Nghề nuôi rắn giờ không còn đáng sợ như xưa. Mỗi người làm nghề phải chuyên nghiệp hơn, học cách sống cùng rắn, chăm rắn như chăm con nhỏ thì rắn mới cho trứng đều, chất lượng tốt. Nuôi rắn không chỉ là nuôi để bán mà là làm ra sản phẩm độc đáo, góp phần bảo tồn sinh học và tạo sinh kế bền vững”, bà Nguyễn Thị Hải chia sẻ thêm.
Dù không còn sôi động như giai đoạn hoàng kim nhưng nghề nuôi rắn tại xã Phùng Nguyên vẫn là điểm sáng về phát triển kinh tế nông thôn dựa trên mô hình đặc thù. Những hộ dân như ông Thành, bà Hải hay hàng chục người dân khác vẫn miệt mài ngày đêm chăm đàn rắn, ấp ủ từng quả trứng để tiếp nối một nghề truyền thống độc đáo mà không nơi nào có được.
Khi những quả trứng rắn trắng ngà được đóng thùng chuyển đi khắp nơi, đó không chỉ là giá trị kinh tế mà còn là niềm tự hào, là bản lĩnh của một làng nghề đã vượt qua thử thách, vươn lên làm giàu từ chính những điều tưởng chừng “đáng sợ".
Mùa trứng rắn lại về. Những con đường làng xã Phùng Nguyên lại rộn ràng xe. Và trong mỗi quả trứng nhỏ bé ấy là cả một câu chuyện dài về nghề, về người và về một vùng quê đang từng bước đổi thay.
Thanh Hòa







