Từ một đất nước nghèo nàn, Ngân khố Trung ương chỉ có 1,25 triệu đồng Đông Dương, Việt Nam đã trở thành quốc gia có quy mô ngân sách đạt 2,1 triệu tỷ đồng, tăng gần 100.000 lần so với thời kỳ đầu lập nước, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư khu vực Đông Nam Á và thứ 34 thế giới.
Hành trình 80 năm qua là câu chuyện về khát vọng độc lập gắn liền với phát triển, về ý chí tự lực tự cường và sự bền bỉ cải cách để đưa đất nước vượt qua đói nghèo, hội nhập mạnh mẽ với thế giới.
Gian khó những năm đầu lập nước
Cách mạng tháng Tám thành công nhưng đất nước ngay lập tức đối diện muôn vàn khó khăn. Ngân khố Trung ương chỉ còn 1,25 triệu đồng Đông Dương, trong khi nạn đói 1945 cướp đi sinh mạng của hơn 2 triệu người. Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong tình thế bị bao vây, cô lập.

Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng và Chính phủ thực hiện nhiều chính sách kinh tế - xã hội cấp bách: Giảm tô, giảm tức, cải cách ruộng đất, thực hiện “người cày có ruộng”. Đến năm 1954, sản lượng lương thực quy ra thóc ở vùng giải phóng đạt trên 2,9 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946 - tạo nền tảng vật chất quan trọng cho chiến thắng Điện Biên Phủ và ký kết Hiệp định Geneva.
Sau 1954, đất nước tạm thời chia cắt. Miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (năm 1960) đã xác định: "Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta". Thu nhập bình quân đầu người của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp năm 1970 đã tăng 20% so với năm 1965. Năm 1975, ở miền Bắc, tổng sản phẩm xã hội gấp 2,3 lần so với năm 1960, thu nhập quốc dân gấp 1,9 lần. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp gấp 3,4 lần. Quan hệ thương mại giữa miền Bắc nước ta với các nước trên thế giới cũng được mở rộng, từ 10 nước (trong đó có 7 nước xã hội chủ nghĩa) trong năm 1955, đến năm 1965 đã tăng lên 35 nước (trong đó có 12 nước xã hội chủ nghĩa). Trong khi đó, kinh tế miền Nam phụ thuộc viện trợ Mỹ, thiếu nền tảng bền vững, lạm phát cao. Chiến tranh kéo dài đã làm hao tổn nghiêm trọng nguồn lực, để lại hậu quả nặng nề khi đất nước thống nhất.
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (giai đoạn 1976 - 1985), cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế trở thành nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân ta. Nhân dân sôi nổi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981 - 1985). Mặc dù đạt được một số thành tựu nhưng nhìn chung nền kinh tế nước ta thời kỳ trước đổi mới có nhiều hạn chế, thậm chí có những dấu hiệu khủng hoảng.
Trước tình hình đó, năm 1986, Đại hội VI của Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, quyết tâm xóa bỏ cơ chế bao cấp, xây dựng kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 10 (Khoán 10) trong nông nghiệp giúp Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành một quốc gia xuất khẩu gạo. Các rào cản tem phiếu được bãi bỏ, hàng loạt mô hình sản xuất - kinh doanh mới ra đời. Kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) hoàn thành vượt mức, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 1990 - 2000 đạt trung bình 7,5%/năm.
Tăng tốc hội nhập, bứt phá vị thế
Năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Giai đoạn 2006 - 2010, tăng trưởng bình quân 7%/năm, GDP năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD, gấp hơn 3 lần năm 2000. Từ 2011 - 2015, tăng trưởng GDP đạt bình quân 5,9%/năm; 2016 - 2020 đạt 6,8%/năm. Dự trữ ngoại hối từ 12,4 tỷ USD (2010) lên hơn 80 tỷ USD (2020). Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cải thiện nhanh nhất, với năng suất lao động tăng bình quân 4,3 - 5,8%/năm.
Dấu mốc nổi bật, năm 2020, Việt Nam lọt top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đến 2023, tổng thu nhập quốc gia đạt gần 9,79 triệu tỷ đồng, tăng 249 lần so với 1990; thu nhập bình quân đầu người đạt 4.323 USD/năm - cao gấp 50 lần so với thời điểm bắt đầu đổi mới. Năm 2024, GDP đạt 476,3 tỷ USD, tăng trưởng 7,09%, đứng thứ 4 ASEAN.

6 tháng đầu năm, GDP tăng 7,52% - mức cao nhất giai đoạn 2011 - 2025. Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 51% GDP, 30% thu ngân sách và sử dụng 82% lao động xã hội. Chính phủ đặt mục tiêu GDP 2025 vượt 510 tỷ USD, GDP bình quân đầu người khoảng 5.000 USD, tổng thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người 4.750 USD, vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp, tiến gần nhóm thu nhập trung bình cao.
Một trong những trụ cột lớn của tăng trưởng kinh tế Việt Nam là xuất khẩu. Với chính sách cởi mở, môi trường kinh doanh thuận lợi cùng nguồn lao động dồi dào, Việt Nam trở thành thỏi nam châm hấp dẫn thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng ngoạn mục, từ chưa đầy 1 tỷ USD vào năm 1986 -thời điểm bắt đầu công cuộc đổi mới, đến năm 2024, con số này đã vượt mốc 400 tỷ USD. Việt Nam hiện nằm trong nhóm 20 quốc gia có kim ngạch thương mại lớn hàng đầu thế giới và được đánh giá là một trong những nền kinh tế mở và hội nhập sâu rộng nhất khu vực. Sự bứt phá này là kết quả của cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục, môi trường kinh doanh thông thoáng, cùng chính sách thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) có chọn lọc. Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các dự án công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, sản xuất xanh và bền vững.
Ông Álvaro Pereira, nhà Kinh tế trưởng Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) tại Việt Nam cho rằng: "Tôi đã theo dõi rất nhiều quốc gia trên thế giới, từ Australia đến Bắc Mỹ, châu Á đến châu Phi và cả châu Mỹ Latinh và rất ít quốc gia gây ấn tượng với tôi nhiều như Việt Nam. Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ rất nhanh, sau mỗi 10 năm, thu nhập bình quân lại tăng gấp đôi. Điều này có được do có sự quản lý kinh tế vĩ mô rất tuyệt vời, các chính sách đúng đắn của chính phủ và động lực to lớn từ người dân. Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới hiện nay".
Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặt ra mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025 và 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu cụ thể đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được, Chính phủ kiên định mục tiêu tăng trưởng cao, thúc đẩy ba động lực truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng) và phát triển mạnh động lực mới (kinh tế số, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo).
Việt Nam đã chứng minh khả năng “hóa rồng” không chỉ bằng tốc độ tăng trưởng mà còn bằng sự ổn định chính trị, xã hội, vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Sau 80 năm, từ một đất nước thiếu đói, Việt Nam đã vươn mình thành quốc gia thu nhập trung bình cao, sẵn sàng bước vào giai đoạn phát triển mới với khát vọng thịnh vượng và bền vững.
Châu Anh