“Siêu đô thị” trong tương lai
Sau sáp nhập, TPHCM tiếp tục củng cố vị thế là đô thị đông dân nhất nước, nhưng quy mô nền kinh tế tăng đáng kể, với cơ cấu kinh tế - xã hội đa dạng, có chiều sâu hơn hẳn so với trước.
TSKH, kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn gọi đây là “một cục diện phát triển hoàn toàn mới” khi cấu trúc vùng được xác lập theo ba cực: Bình Dương (cũ) là vùng công nghiệp - sản xuất; Bà Rịa - Vũng Tàu (cũ) là đầu mối cảng biển - du lịch biển và TPHCM hiện hữu là trung tâm tài chính - công nghệ - giáo dục - đổi mới sáng tạo. Không gian kinh tế mới này như một “chuỗi dây chuyền khép kín”, trong đó việc đặt các trung tâm sản xuất, phân phối, logistics trong cùng không gian quy hoạch giúp nhiều ngành kinh tế giảm chi phí vận hành, rút ngắn thời gian đưa hàng ra thế giới và nâng cao năng lực phản ứng thị trường.

Theo phân tích của giới chuyên gia kinh tế, việc hợp nhất 3 trong 6 địa phương dẫn đầu về quy mô kinh tế Việt Nam sẽ củng cố vị thế “đầu tàu” của TPHCM, với quy mô kinh tế đạt hơn 2,7 triệu tỷ đồng, chiếm gần 1/4 GDP năm 2024 của cả nước; thu ngân sách cũng vượt trội khi chiếm gần 1/3 cả nước với 682.000 tỷ đồng. Cơ cấu nền kinh tế của TPHCM mới sẽ thay đổi khi tỷ trọng công nghiệp gia tăng nhờ thế mạnh của Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, tỷ trọng dịch vụ từ trên 65% giảm xuống 51,82%, công nghiệp, xây dựng tăng từ 22% lên 35%, còn lại đến từ nông, lâm, thuỷ sản, thuế sản phẩm…
Lợi thế của các đô thị riêng lẻ sẽ được hội tụ vào thành phố mới sau sáp nhập. Mở rộng thành phố đồng nghĩa với phát triển không gian đô thị, với rất nhiều khu đô thị mới sẽ được đầu tư xây dựng, chính là động lực thúc đẩy các ngành xây dựng, vật liệu xây dựng có dư địa tăng trưởng mạnh mẽ.
Với dân số 14 triệu người sau sáp nhập, TPHCM trở thành "siêu đô thị" đầu tiên của Việt Nam và thứ 4 của Đông Nam Á, sau Bangkok Metropolitan Region (BMR, Thái Lan), Jakarta (Indonesia) và Metro Manila (National Capital Region, Philippines). Mặc dù so với các thành phố toàn cầu hiện hữu trong khu vực và trên thế giới, TPHCM hiện vẫn còn những khoảng cách nhất định, nhưng lợi thế kinh tế của cả 3 địa phương sau sáp nhập được kỳ vọng sẽ phát huy thông qua tầm nhìn quy hoạch chung, tạo ra nhiều dư địa phát triển thành đô thị toàn cầu, thu hẹp khoảng cách với các đô thị trong khu vực, trước mắt là về quy mô kinh tế.
Những “nan đề” cần lời giải
Nhiều chuyên gia kinh tế cùng cho rằng, việc sáp nhập 3 địa phương không phải là phép tính cộng mà phải là phép tính nhân, nhằm cộng hưởng các yếu tố thuận lợi để phát triển thành một siêu đô thị hiện đại, văn minh. Cụ thể hơn, cần tính toán quy hoạch TPHCM mới không chỉ là đơn vị hành chính cấp tỉnh, mà phải là một tiểu vùng kinh tế, trên cơ sở đó rà soát các chỉ số cơ cấu kinh tế, phân bổ địa bàn, sử dụng đất… theo hướng đa trung tâm. Do đó, “nan đề” đầu tiên là cần phải quy hoạch lại thành phố một cách tổng thể.
“Không thể quy hoạch đô thị hiện đại bằng tư duy cũ kỹ, cục bộ mà phải chuyển sang tư duy chia sẻ, tích hợp, liên thông và hướng đến liên vùng”, ông Ngô Viết Nam Sơn nói.
Trước đây, TPHCM cùng 2 tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương đều đã xây dựng những bản quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đến giờ, những tư tưởng chính của các quy hoạch ấy có thể được sử dụng làm chất liệu để xây dựng một bản quy hoạch mới mang tính tổng thể trên cơ sở tính toán lợi thế, rà soát lại cơ cấu toàn bộ hệ thống không gian đô thị theo hướng mở rộng các không gian đô thị, không gian kinh tế, không gian văn hoá… để phát triển bền vững. TS Nguyễn Thị Hậu, thành viên Hội đồng Tư vấn thực hiện Nghị quyết 98 nhận định, thành phố mới phải đảm bảo 3 đặc trưng gồm: Trung tâm về tiền tệ, dịch vụ, tài chính; logistics và công nghiệp mới. “Nếu dựa trên 3 đặc điểm này thì TPHCM mới là sự tổng hợp của cả 3 thế mạnh đến từ 3 địa phương”.

Theo ThS Nguyễn Trúc Vân, Giám đốc Trung tâm Mô phỏng và Dự báo kinh tế - xã hội (Viện Nghiên cứu Phát triển TPHCM), sau khi sáp nhập, tốc độ tăng trưởng kinh tế TPHCM mới có thể thấp hơn, tỷ trọng dịch vụ giảm đi nhưng công nghiệp sẽ tăng lên. Vì vậy, thành phố cần xác định lại mục tiêu của mình, chọn động lực tăng trưởng chính để phát huy lợi thế, đồng thời kịp thời nhận diện và giải quyết những thách thức phát sinh của một “siêu đô thị”.
Với TPHCM trước đây, giao thông đã là thách thức lớn, với không ít vấn nạn tác động tiêu cực đến tốc độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã hội. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết khi quy mô thành phố được mở rộng. Một trong những mô hình được các chuyên gia đề xuất, đó là phát triển đô thị theo hướng “đa trung tâm” - tức phát triển và hình thành các trung tâm đô thị vệ tinh, đảm bảo người dân ở đâu cũng có thể tiếp cận hạ tầng thiết yếu như trường học, bệnh viện, công viên, trung tâm văn hóa thể thao... trong khoảng 15 phút đi bộ hoặc đạp xe. Điều này giúp giảm tải áp lực giao thông vào trung tâm, hạn chế ô nhiễm và nâng cao chất lượng sống đồng đều cho cư dân toàn vùng. Cùng với đó là chiến lược đầu tư phát triển hệ thống giao thông đô thị, với nhiều loại hình vận chuyển hiện đại: Sân bay, cảng biển/sông, metro, đường cao tốc, đường nội đô… tất cả đều phải đồng bộ và triển khai trong thời gian nhanh nhất.
Một vấn đề mới sau sáp nhập, đó không chỉ là câu chuyện của quy hoạch và tầm nhìn, mà còn mở ra cơ hội tái cấu trúc cho từng ngành nghề cụ thể, trong đó cần nhấn vào các trục chiến lược như kinh tế biển, tài chính, logistics, công nghệ cao, năng lượng tái tạo và du lịch sinh thái. Đồng thời đẩy mạnh mô hình đô thị đại học và hợp tác đổi mới sáng tạo theo “mô hình 4 xoắn ốc” gồm: Nhà nước - đại học - doanh nghiệp - cộng đồng.
Nói như ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội bất động sản TPHCM (HoREA), “việc sáp nhập không chỉ là bài toán hành chính, mà là cuộc cách mạng về tư duy phát triển. Với cùng một nguồn lực, nhưng nếu tổ chức lại hợp lý, chúng ta có thể tạo ra hiệu suất vượt trội hơn”.
Giải bài toán nhân lực
Nhu cầu nhân lực của TPHCM mới được dự báo tăng mạnh tong tương lai. Riêng quý III năm nay, dự kiến thành phố cần khoảng 85.000 - 90.000 lao động, tập trung chủ yếu ở các ngành dệt may, da giày và lắp ráp giản đơn, nhưng vấn đề tuyển dụng đang gặp nhiều khó khăn… Dù tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh, nhưng thành phố đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ trong nhiều ngành sản xuất và dịch vụ. Nguyên nhân chủ yếu đến từ sự dịch chuyển nhu cầu của thị trường và sự lạc hậu trong phương pháp tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp. Lao động phổ thông vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong nhu cầu tuyển dụng, với khoảng 58%, đặc biệt trong các ngành sản xuất theo dây chuyền hoặc lao động giản đơn.
Theo cơ quan quản lý về nhân lực, sau khi sáp nhập các đơn vị hành chính, dù cho lực lượng lao động dôi dư được kỳ vọng sẽ bổ sung đáng kể cho nguồn cung nhân lực. Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển tiếp, việc thay đổi cơ cấu nghề nghiệp, địa bàn làm việc và yêu cầu kỹ năng từ phía doanh nghiệp khiến cung - cầu lao động tạm thời mất cân bằng.
Dự báo 6 tháng cuối năm, thị trường lao động thành phố có nhu cầu tuyển dụng từ 151.282 - 159.040 vị trí việc làm mới, chủ yếu các ngành cơ khí, điện, điện tử, hóa chất, chế biến thực phẩm, tài chính, logistics, thương mại, nhà hàng, khách sạn…
Thực tế cho thấy, bài toán đặt ra với TPHCM không dừng lại ở con số tuyển dụng được, mà chủ yếu là chất lượng và cơ cấu lao động. Điều này đòi hỏi sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp, nền tảng công nghệ cùng những chính sách linh hoạt từ thành phố để giữ chân và phát triển lực lượng lao động phù hợp với xu hướng mới. Một trong những nguyên nhân khiến việc tuyển dụng gặp khó khăn là lao động trẻ không còn mặn mà với công việc nhà máy, làm việc theo ca hay dây chuyền, thay vào đó, họ ưu tiên công việc linh hoạt, chủ động thời gian như tài xế công nghệ, bán hàng online, dịch vụ tự do... Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TPHCM cho rằng, thay đổi này đến từ nhận thức và giá trị sống mới của thế hệ trẻ. Họ không còn chỉ quan tâm mức thu nhập, mà chú trọng đến trải nghiệm, sự tự chủ và môi trường làm việc. Thực tế này mâu thuẫn với phương thức tuyển dụng cũ kỹ của nhiều doanh nghiệp như dán thông báo, phát tờ rơi, đăng tin ở những nơi không chuyên biệt, dẫn đến không tiếp cận được đúng nhóm lao động mục tiêu.
Để giải quyết vấn đề này, sự hỗ trợ của công nghệ là rất quan trọng. Một số công ty tư vấn nhân lực cho biết, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhận tạo và dữ liệu lớn để sàng lọc hồ sơ, phân tích xu hướng có thể rút ngắn đến 70% thời gian xử lý tuyển dụng. Tương tự như với các lĩnh vực kinh tế và phát triển đô thị, thành phố cần xây dựng lại quy hoạch về nguồn nhân lực để có kế hoạch đào tạo và sử dụng một cách hơp lý, hiệu quả nhất.
VIỆT HÙNG