Bài học từ xuất khẩu sầu riêng
Thời gian qua, xuất khẩu sầu riêng sang Trung Quốc giảm mạnh khiến giá sầu riêng trong nước giảm sâu. Xuất khẩu sầu riêng suy giảm tới 74% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu sầu riêng trong 4 tháng năm nay chỉ đạt 130 triệu USD, thấp hơn rất nhiều so với mức 500 triệu USD cùng kỳ năm trước. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là từ đầu năm đến nay Trung Quốc đã tăng tỷ lệ kiểm tra.
Theo khảo sát, giá thu mua sầu riêng Ri6 tại vườn hiện ở mức 30.000 - 60.000 đồng/kg, tùy loại. Trong khi đó, sầu riêng Thái dao động 45.000 - 95.000 đồng/kg, tùy loại.
Để gỡ “nút thắt” giúp nông sản Việt, đặc biệt là sầu riêng rộng đường xuất khẩu, thời gian qua các cơ quan chức năng đã phối hợp với chính quyền địa phương và hiệp hội ngành hàng cũng như người nông dân có giải pháp đồng bộ nhằm hoàn thiện các yêu cầu về tiêu chuẩn của thị trường Trung Quốc. Đặc biệt là yêu cầu về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật và hệ thống truy xuất nguồn gốc với sản phẩm sầu riêng.
Ông Huỳnh Tấn Đạt, Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ NN&MT) cho biết, Trung Quốc vừa phê duyệt thêm 829 mã số vùng trồng và 131 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng của Việt Nam. Như vậy, đến nay Việt Nam đang có 1.396 mã số vùng trồng và 188 mã số cơ sở đóng gói sầu riêng được xuất khẩu sang Trung Quốc. Việc được Trung Quốc chấp thuận thêm nhiều mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói đánh dấu bước tiến quan trọng trong nỗ lực mở rộng quy mô xuất khẩu chính ngạch sản phẩm sầu riêng sang thị trường Trung Quốc.
“Được chấp thuận mã số chỉ là điều kiện đầu vào. Muốn trụ vững người trồng phải tuân thủ chặt chẽ quy trình canh tác, xử lý sau thu hoạch và đóng gói theo đúng những gì đã cam kết. Điều đó đòi hỏi cả hệ thống, từ hợp tác xã, doanh nghiệp, đến từng hộ nông dân phải nâng cao ý thức và tự giác làm đúng. Người tiêu dùng Trung Quốc rất chuộng sầu riêng Việt Nam, nhưng cũng rất khắt khe. Cấp mã không có nghĩa là yên tâm mà càng phải siết kỷ luật, giữ uy tín”, ông Đạt nhấn mạnh.

Hàng xuất khẩu đối mặt nhiều yêu cầu, trong đó có truy xuất nguồn gốc
Câu chuyện về truy xuất nguồn gốc sầu riêng cũng là bài học để Việt Nam có định hướng dài hơi trong xuất khẩu nông sản. Hiện Việt Nam được xem là cường quốc xuất khẩu trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thương mại. Do đó, tất yếu hàng hóa xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt với nhiều yêu cầu của các thị trường, trong đó có vấn đề truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Việc truy xuất nguồn gốc đặt ra với toàn bộ chuỗi cung ứng từ nguyên liệu đến bán thành phẩm và thành phẩm. Mặt khác, nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) bắt buộc truy xuất nguồn gốc.
Thời gian qua, việc tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm hàng hoá, nhất là nông sản được triển khai ở nhiều địa phương. Qua đó, không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà còn giúp nâng cao giá trị cho sản phẩm hàng hóa, nhất là sản phẩm OCOP, nông sản sạch, an toàn của tỉnh, tạo niềm tin đối với người tiêu dùng.
Hợp tác xã Nông sản sạch Bảo An (thị trấn Vĩnh Trụ, Lý Nhân) một trong số nhiều đơn vị đã và đang thực hiện tốt việc dán tem QR Code để truy xuất nguồn gốc các sản phẩm nông sản sạch. Mỗi năm, ngoài trực tiếp sản xuất, hợp tác xã còn thu mua hàng chục tấn sản phẩm rau, củ, quả các loại từ các hợp tác xã, hộ sản xuất trong khu vực; đồng thời ký kết hợp đồng với bên cung cấp, trong đó yêu cầu toàn bộ nguyên liệu không còn tồn dư chất bảo vệ thực vật, bảo đảm chất lượng theo yêu cầu.
Tương tự, Công ty TNHH Morice Noodles Việt Nam (thành phố Phủ Lý, Hà Nam) cũng là một trong những doanh nghiệp tiên phong gắn tem truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm bún, phở, miến, bánh tráng, chùm ngây... Đây là những sản phẩm đã được tỉnh công nhận là sản phẩm OCOP.
Theo Phó Giám đốc Công ty TNHH Morice Noodles Việt Nam, thời gian qua, công ty chú trọng thiết kế logo, bao bì, đăng ký mã vạch, mã QR Code, đóng gói sản phẩm theo tiêu chuẩn. Qua đó, giúp người tiêu dùng dễ dàng truy xuất nguồn gốc, xem thông tin hướng dẫn sử dụng, bảo quản, hàm lượng dinh dưỡng... của sản phẩm.
Việc thực hiện quy trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm góp phần tạo dựng vị thế, tăng sức cạnh tranh cho các sản phẩm trên thị trường. Ngày càng được người tiêu dùng tin tưởng sử dụng nên các sản phẩm của công ty đã có mặt trên kệ hàng của các siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích và nhà hàng; đồng thời xuất khẩu.
Theo TS Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), việc xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc đòi hỏi phải công khai và chia sẻ dữ liệu khiến doanh nghiệp còn e ngại vấn đề bảo mật dữ liệu liên quan tới bí mật thương mại, thông tin cá nhân... Nhiều doanh nghiệp còn chưa hiểu hết tầm quan trọng và ý nghĩa của truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Mặt khác, quy định về truy xuất nguồn gốc hiện chủ yếu mang tính tự nguyện nên nhiều doanh nghiệp chưa áp dụng hay chưa muốn đầu tư cho truy xuất nguồn gốc.
Về phía cơ quan Nhà nước, mặc dù đã triển khai các quy định về truy xuất nguồn gốc, đồng thời đưa ra nhiều quy định, yêu cầu và tổ chức thực hiện, hỗ trợ doanh nghiệp nhưng số doanh nghiệp tham gia chưa được như mong muốn.
Từ thực tế trên, TS Nguyễn Thị Thu Trang đề xuất, để thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ trong truy xuất cần phải có sự hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất kinh doanh, nông dân cá thể chuyển đổi số và tự xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm của họ. Đồng thời hướng dẫn họ kết nối hệ thống truy xuất nguồn gốc này với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc quốc gia. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước cần cung cấp giải pháp, công cụ truy xuất nguồn gốc trực tuyến hay nhật ký điện tử, hệ thống định vị… giúp truy xuất nguồn gốc một cách nhanh chóng, chính xác và độ tin cậy cao.
KHÁNH VÂN







