Xuất khẩu rau quả ước đạt khoảng 6,6 tỷ USD
Theo báo cáo của Bộ NN&MT, giá trị XK rau quả tháng 6 ước đạt 750 triệu USD, đưa tổng giá trị XK rau quả 6 tháng đạt 3,05 tỷ USD, giảm 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, ngành rau quả đặt mục tiêu XK 7,6 tỷ USD, tăng 6,8% so với năm 2024.
Thực tế mặt hàng rau quả của Việt Nam chủ yếu được XK sang thị trường Trung Quốc với tỷ trọng giá trị XK chiếm 48,2%. Tiếp đến là Hoa Kỳ và Hàn Quốc với tỷ trọng giá trị XK lần lượt là 9% và 5,7%.
So với cùng kỳ năm trước, giá trị XK hàng rau quả 5 tháng đầu năm sang thị trường Trung Quốc giảm 35,1%, Hoa Kỳ tăng 65,2%, Hàn Quốc giảm 5,3%. Trong nhóm 15 thị trường XK lớn nhất, giá trị XK hàng rau quả tăng mạnh nhất ở thị trường Hồng Kông (Trung Quốc) với mức tăng 69,2% và giảm mạnh nhất ở thị trường Trung Quốc với mức giảm 35,1%.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho hay, dù các thị trường XK khác tăng trưởng bình thường, tuy nhiên, do kim ngạch XK sang các thị trường này chưa lớn bằng Trung Quốc, nên khi Trung Quốc sụt giảm XK một vài mặt hàng chiến lược sẽ ảnh hưởng đến kim ngạch chung. Ông Đặng Phúc Nguyên phân tích, theo số liệu của Cục Hải quan (Bộ Tài chính) đến hết tháng 5, XK sầu riêng chỉ đạt 387 triệu USD (riêng thị trường Trung Quốc chỉ được 278 triệu USD, giảm 67%, kéo tổng kim ngạch XK toàn ngành rau quả giảm.
“Năm ngoái chúng ta XK sầu riêng đạt 3,2 tỷ USD, nếu tính tốc độ kim ngạch sầu riêng giảm khoảng 60%, như vậy, năm nay kim ngạch XK sầu riêng dự kiến sụt giảm khoảng 1,8 tỷ USD”, ông Nguyên nói.

Nhận định về kim ngạch XK rau quả nói chung, Thứ trưởng Bộ NN&MT Phùng Đức Tiến chia sẻ, số liệu XK ước tính vào thời điểm tháng 6, khả năng kim ngạch XK rau quả có thể sụt giảm so với mục tiêu đặt ra, ước tính khoảng 6,6 tỷ USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Vì thế, theo các chuyên gia, 6 tháng cuối năm, các doanh nghiệp cần tăng tốc thúc đẩy XK vào các thị trường trọng điểm, trong đó, tập trung sản phẩm trái cây đặc sản là thế mạnh như dừa tươi, xoài, bưởi, chanh dây… Đồng thời đẩy mạnh XK bổ sung các sản phẩm chế biến, đặc biệt sản phẩm chế biến từ dừa và xoài đang có lợi thế tăng trưởng tốt. Bên cạnh đó, ngành hàng rau quả cần duy trì và thúc đẩy XK vào các thị trường lớn, ưu tiên lựa chọn các thị trường mà Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Trung Quốc để giảm thiểu rủi ro và gia tăng giá trị XK bền vững.
XK gạo ước đạt 5,5 tỷ USD
XK gạo tháng 6 ước đạt 700.000 tấn với giá trị đạt 364,4 triệu USD, đưa tổng khối lượng và giá trị XK gạo 6 tháng đầu năm đạt 4,9 triệu tấn và 2,54 tỷ USD, tăng 7,6% về khối lượng nhưng giảm 12,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024.
Giá gạo XK bình quân 6 tháng ước đạt 517,5 USD/tấn, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm 2024. Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 43,4%. Bờ Biển Ngà và Gana là 2 thị trường tiếp theo với thị phần tương ứng là 10,7% và 10,5%. So với cùng kỳ năm trước, giá trị XK gạo 5 tháng đầu năm sang Philippines giảm 17,4%, Bờ Biển Ngà tăng 88,6%, Gana tăng 61,4%.
Trong nhóm 15 thị trường XK lớn, giá trị XK gạo tăng mạnh nhất ở Bangladesh với mức tăng 293,2 lần và giảm mạnh nhất ở thị trường Malaysia với mức giảm 54,7%.
Mục tiêu kế hoạch XK năm nay ước đạt 5,7 tỷ USD, giảm 0,9% so với cùng kỳ 2024; trong đó 6 tháng đầu năm cần đạt 2,6 tỷ USD, 6 tháng cuối năm cần đạt 3,1 tỷ USD. Tuy nhiên, số liệu XK ước tính vào thời điểm tháng 6, khả năng kim ngạch XK ngành hàng gạo có thể sụt giảm so với mục tiêu đặt ra, ước đạt 5,5 tỷ USD, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tham gia vào chuỗi giá trị ngành gạo ở các khâu như sấy, xay xát và đánh bóng, ông Bùi Lê Quốc Bảo, Tổng giám đốc Công ty cổ phần TCO Holdings cho biết, XK gạo năm nay nhiều khả năng sẽ giảm cả lượng và giá so với năm 2024. Do dư địa cho XK gạo còn rất ít trong bối cảnh mức nền của năm 2024 vốn ở mức cao, trong khi có quá nhiều yếu tố bất lợi liên quan đến thị trường, đặc biệt là khi Ấn Độ nới lỏng lệnh hạn chế xuất khẩu gạo.

Cập nhật số liệu mới nhất của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), giá gạo 5% tấm của Việt Nam vẫn giữ mức 382 USD/tấn, bằng với sản phẩm cùng phẩm cấp của Thái Lan. Còn gạo Ấn Độ thấp hơn 2 USD/tấn và gạo Pakistan cao hơn 4 USD/tấn. Với gạo 25% tấm của Việt Nam hiện ở mức 357 USD/tấn, thấp hơn lần lượt 11 USD/tấn và 9 USD so với gạo cùng phẩm cấp của Thái Lan và Ấn Độ, nhưng cao hơn 5 USD/tấn so với gạo Pakistan.
Tại thị trường Philippines, tính đến cuối tháng 6, lượng gạo nhập khẩu là 2,17 triệu tấn, ít hơn 163.000 tấn so với cùng kỳ năm 2024. Tính đến ngày 19/6, nhập khẩu gạo của Philippines từ Việt Nam đạt 1,58 triệu tấn.
Đáng chú ý, lượng gạo nhập từ Myanmar tăng vọt lên con số gần 300.000 tấn, vượt qua Thái Lan để chiếm vị trí thứ 2; Thái Lan với 125.000 tấn, đứng thứ 3. Một điểm đáng chú ý khác là nguồn cung gạo dồi dào với giá rẻ từ Ấn Độ không có ưu thế ở thị trường này khi chỉ đạt 19.000 tấn đứng ở vị trí thứ 5, thấp hơn cả Pakistan với 74.000 tấn.
Để đạt mục tiêu XK, theo các chuyên gia kinh tế, cần tiếp tục duy trì thị phần XK, tận dụng lợi thế cạnh tranh để gia tăng thị phần gạo thơm khi Thái Lan và Ấn Độ là hai nhà cung cấp phân khúc này lớn nhất nhì vào thị trường Hoa Kỳ nhưng chịu mức thuế cao lần lượt là 36% và 26%.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống có thị phần lớn như Philippines, Indonesia, Malaysia. Doanh nghiệp cần tìm kiếm thêm thị trường XK và đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào để giảm áp lực thuế. Nghiên cứu chuyển dịch mạnh sang các thị trường EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore (đối với các sản phẩm chế biến như bún, mì, nui, phở); tìm giải pháp giảm chi phí logistic để mở rộng sang các thị trường tiềm năng Ghana, Bờ Biển Ngà và UAE với chủng loại gạo thơm và gạo trắng.
Từ tình hình thực tế hiện nay, Bộ NN&MT và VFA dự báo XK gạo năm nay có thể chỉ đạt 7,5 triệu tấn, giảm so với mức kỷ lục hơn 9 triệu tấn năm 2024. Sản lượng gạo XK có thể giảm, nhưng nếu tăng được lượng gạo ST24, ST25, gạo thơm chất lượng cao, thì ngoại tệ mang về vẫn tích cực. Việc tập trung vào phân khúc chất lượng cao và thương hiệu là yếu tố then chốt giúp duy trì vị thế của gạo Việt.
Nguyễn Thanh